(Saccapāramitā)
Dịch giả: Tỳ kheo Thiện Minh

Đại Tạng Kinh Việt NamKính mong quý độc giả xem kinh cùng góp sức hoàn thiện bằng cách gửi email về admin@rongmotamhon.net để báo cho chúng tôi biết những chỗ còn có lỗi.

Font chữ:

III.7 Hạnh của Hầu vương[28]
(Kapiràjacariyam)

1- Khi Như Lai là một con khỉ sống trong hang ở khe của một bờ sông bị một con cá[29] sấu đe dọa, Như Lai không có cơ hội để đi đến hòn đảo[30]
2- Ở nơi đó Như Lai thường đứng[31] ở bên bờ sông này và nhảy xuống bên bờ sông kia[32], ở đó có một con cá sấu, một kẻ thù[33], một kẻ giết người, một hình dáng ghê sợ[34].
3- Nó nói[35] với Như Lai: "Nào". "Ta đang đến đây[36]" Như Lai nói[37] với nó. Bước lên đầu của nó Như Lai đi qua[38] được bờ bên kia.
4- Lời nói của nó không chân thật, Như Lai hành động theo lời của mình[39]. Không có ai chân thật bằng Như Lai - Ðây là chân thật độ của Như Lai.
III. 8 Hạnh của Bồ-tát Sacca khôn ngoan[40]
(Saccasavhayapanditacariyam)
1- Lại nữa, khi Như Lai là đạo sĩ ẩn dật có tên là Sacca[41], Như Lai bảo vệ[42] thế gian bằng sự chân thật, Như Lai làm cho mọi người đoàn kết[43].
III.9 Hạnh của chim cút con [44]
(Vattapotakacariyam)
[45]
1- Lại nữa, khi Như Lai là con chim cút con ở Magadha, chưa mọc cánh, vừa mới sinh, như cục thịt trong tổ,
2- Mẹ Như Lai nuôi Như Lai bằng thức ăn, bà ta mang trong mỏ, Như Lai sống bằng sự mớm mồi của mẹ, Như Lai không có thân thể khỏe mạnh.
3- Hàng năm vào mùa nóng một nạn cháy rừng[46] bừng lên, khi ngọn lửa lan dần[47] đến gần chúng tôi.
4- Ðám cháy khủng khiếp[48] tạo nên những âm thanh răng rắc (dhùma dhùma)[49], một ngọn lửa phừng phừng lan dần đến gần tôi.
5- Cha mẹ ta sợ hãi ngọn lửa khủng khiếp[50], bỏ lại ta trong ổ, rồi họ thoát thân.
6- Như Lai cố gắng[51] dùng chân và cánh. Nhưng Như Lai không có đủ sức mạnh. Bởi vì Như Lai không thể đi[52] được, rồi ở đó[53] Như Lai nghĩ như thế này:
7- Ðối với những người đã sợ hãi, run sợ bỏ chạy để Như Lai ở lại một mình. Như Lai phải làm như thế nào hôm nay?
8- Ở thế gian có đặc tính giới hạnh, có sự chân thật, có sự trong sạch, có sự bao dung. [54]Bởi sự chân thật này Như Lai sẽ long trọng xác nhận sự thật cao quí.
9- Suy niệm về sức mạnh giáo pháp, nhớ lại những bậc chiến thắng trước đây, dựa vào[55] sức mạnh của sự chân thật, Như Lai long trong xác nhận sự chân thật.
10- "Có cánh mà không bay, có chân mà không đi[56]. Cha mẹ đã bỏ đi. Jàtaveda[57] lửa tàn dần "
11- Như Lai long trọng xác nhận với sự thật, đám cháy khủng khiếp[58] đã lùi trở lại 16 karìsas[59] và giống như đám cháy[60] gặp phải nước. Không có ai chân thật bằng Như Lai - Ðây là chân thật độ của Như Lai.
III.10 Hạnh của Ngư vương[61]
(Maccharàjacariyam)

1- Lại nữa, khi Như Lai làm vua cá trong một cái hồ lớn vào mùa nắng[62], dưới ánh mặt trời nóng bức, nước trong hồ khô cạn
2- Rồi sao đó con quạ, con diều hâu và những con cò con ó[63] ngồi gần đó ăn cá[64] ngày đêm.
3- Ở đó cùng chịu sự áp bức đến với những người thân của Như Lai, Như Lai nghĩ như vầy: "bây giờ bằng cách nào mà Như Lai có thể giúp cho thân nhân tránh khỏi sự đau khổ".
4- Sau khi xem xét thiện pháp[65], Như Lai tìm thấy được sự thật là một sự hỗ trợ. Tin tưởng vào sự thật, Như Lai hóa giải những tai họa đến với người thân của Như Lai.
5- Sau khi ghi nhớ lại pháp chân thật[66], được xem là điều tốt lành nhất, Như Lai long trong xác nhận sự thật sẽ tồn tại và bất diệt trong thế gian:
6- "Miễn là Như Lai có thể nhớ về bản thân mình, kể từ khi Như Lai có sự chín chắn Như Lai không biết gây ra sự đau đớn[67] ngay cả với ý định làm hại đến một sinh vật. Bởi lời nói chân thật này có thể làm vua trời[68] cho mưa xuống
7- Sấm sét (pajjunna)! Phá hủy kho báu vô chủ của loài cò[69], làm[70] loài cò sợ hãi và giúp cho loài cá[71] thoát khỏi sự đau đớn"
8- Và ngay sau khi long trọng xác nhận sự thật, vua trời làm cho sấm sét, và trong chốc lát mưa đổ xuống ngập vùng cao vùng thấp[72]
9- Truyền bá năng lực[73] tối cao đối với sự thật cao quí, dựa vào năng lực và sự tỏa sáng của chân lý, Như Lai đã làm cho mưa ghê gớm đổ xuống. Không có ai chân thật bằng Như Lai - Ðây là chân thật độ của Như Lai.
III.11 Hạnh của Bồ-tát Kanhadìpàyana[74]
(Kanhadìpàyanacariyam)

1- Lại nữa, khi Như Lai là một thầy bói có tên là Kanhadìpàyana[75], Như Lai bị người ta bạc đãi[76] hơn 50 năm
2- Không ai biết được điều này đã làm cho tâm Như Lai khó chịu bởi vì[77] Như Lai chẳng nói với ai hết; sự khó chịu này vẫn tiếp tục xảy ra trong tâm Như Lai.
3- Một người Bà-la-môn[78] bị bạc đãi, có tên là Mandabya, bạn của Như Lai, một người thầy bói nổi tiếng, do có sự liên quan với hành động trước đây[79] đã bị đóng cọc nhọn.
4- Sau khi đến thăm vị này Như Lai phục hồi sức khỏe cho bạn mình. Rồi Như Lai xin phép[80] được trở về nơi ẩn dật của mình.
5- Người bạn Bà-la-môn của Như Lai đem vợ cùng con trai nhỏ - tất cả ba người, đến ở cũng như là những người khách.
6- Trong lúc Như Lai đang chào hỏi với họ, ngồi ở trong cốc của mình, đứa trẻ ném trái banh[81] làm con rắn giận dữ[82].
7- Rồi đứa bé tìm nơi trái banh lăn, tay của nó chạm vào đầu con rắn độc.
8- Do sự đụng chạm của đứa bé con rắn giận dữ với nọc độc cực mạnh của nó, lập tức nó cắn vào tay đứa bé.
9- Khi đứa bé bị con rắn độc cắn[83], nó ngã lăn trên nền nhà, do đó Như Lai hết sức đau buồn; nỗi buồn của bố mẹ[84] đứa bé làm cho Như Lai cảm thấy[85] khó chịu.
10- Như Lai an ủi và chia xẻ nỗi đau khổ của họ, điều quan trong hơn hết là Như Lai long trọng xác nhận về sự chân thật.
11- [86]"Chỉ trong bảy ngày với một tâm thành kính, mong cầu phước thiện, chịu bạc đãi của những người Bà-la-môn. Rồi sau đó, chính điều này là sự bạc đãi của Như Lai[87] trong 50 năm và hơn nữa[88].
12- Như Lai chỉ nhận sự bạc đãi một cách miễn cưỡng. Bằng sự chân thật này có thể có được sự tốt lành[89], chất độc bị tiêu hủy và Yannadatta[90] sống lại".
13- Như Lai long trọng xác nhận sự chân thật này, đứa bé Bà-la-môn đã bị sức mạnh nọc độc làm run rẩy, tỉnh dậy, đứng lên và khỏe mạnh. Không có ai có sự chân thật bằng Như Lai - đây là chân thật độ.
III.12 Hạnh của Bồ-tát Sutasoma[91]
(Sutasomacariyam)

1- Một lần nữa khi Như Lai là một vị vua tên là Sutasoma, bị một người ăn thịt bắt giữ Như Lai hứa lời hứa[92] của mình với vị Bà-la-môn.
2- Sau khi xỏ xâu[93] treo một trăm vị hoàng tử trên cây, rồi để cho họ chết khô[94], ông ta đưa Như Lai làm vật hi sinh.
3- Người ăn thịt hỏi Như Lai: "Có phải là ông muốn được tự do không[95]? Ta sẽ làm theo ýthích của ông nếu ông sẽ trở lại gặp ta".
4- Sau khi hứa với người ăn thịt Như Lai sẽ trở lại vào buổi hoàng hôn, đến gần thành phố tráng lệ, rồi Như Lai tuyên bố sự với thần dân.
5- Nhận thức được giáo pháp tốt đẹp mà những người chiến thắng trước đây đã đi theo, Như Lai trao lại sự giàu sang cho vị Bà-la-môn, rồi trở lại với kẻ ăn thịt người.
6- Như Lai không bận tâm là người này sẽ giết Như Lai hay không. Ðể bảo vệ lời nói chân thật Như Lai đến để hi sinh mạng sống, không có ai chân thật bằng Như Lai. Ðây là chân thật độ[96].


Chú thích:
[28] Túc sanh truyện Vànarinda số 57. Bản Hạnh Tạng La tinh, phần giới thiệu XIV giống với số 208, BCL với số 250.
[29] Sumsumàra. Ở câu kệ tiếp kumbhila.
[30] Có một tảng đá ở giữa sông giữa đường đến bờ sông và một cù lao trên đó có nhiều cây trái. Một người bạn cùng ở chung với cá sấu muốn ăn trái tim của con khỉ vì thế cho đến khi con khỉ (Bồ-tát) lừa được cá sấu, nó nằm trên tảng đá để bắt khỉ, bằng cách ấy đã bỏ rơi được cá sấu cả nơi cung cấp chỗ ăn và sự an toàn.
[31] Nghĩa là tảng đá ở trên sông, bản chú giải Hạnh Tạng 229.
[32] Rồi con khỉ sẽ nhảy từ tảng đá đến nơi nó sinh sống (cùng trong sách).
[33] Bản Hạnh Tạng La tinh, bản chú giải Hạnh Tạng (bản Hạnh Tạng ở Rangoon) viết là satthu nhưng bản ở Colombo viết là sattu.
[34] Bản Hạnh Tạng La tinh viết ruddadassana, bản chú giải Hạnh Tạng, hai bản Hạnh Tạng ở Colombo và Rangoon viết là ludda-
[35] Bản Hạnh Tạng La tinh, bản chú giải Hạnh Tạng 230. Bản Hạnh Tạng ở Rangoon viết asanisi, bản Hạnh Tạng ở Colombo, trình bày điều này như là một động từ 1, àsinisi.
[36] Giữ lời của mình, vì thế Bồ-tát nói sự thật
[37] Bản Hạnh Tạng La tinh viết là vadi, bản chú giải Hạnh Tạng, bản Hạnh Tạng in ở Colombo và Rangoon viết là vadini.
[38] Patitthahim, Như Lai đứng thật vững.
[39] Ở Túc sanh truyện Sunisumàra số 208 và Túc sanh truyện Vànara số 342, con khỉ đã nói dối với con cá sấu.
[40] Dường như không phù hợp với Túc sanh truyện, BCL đồng hòa với số 73.
[41] Không có ở trong từ điển danh từ riêng Pàli (DPPN= Dictionary of Pàli Proper Name)
[42] Bản Hạnh Tạng La tinh, bản chú giải Hạnh Tạng 231, bản Hạnh Tạng ở Rangoon viết là palesim, bản ở Colombo là pàlemi.
[43] Samagga, bản chú giải Hạnh Tạng 232 nói rằng Như Lai đã cho mọi người thấy tai họa ở những cuộc cải vả và những cuộc tranh luận mà họ thích thú tận hưởng và thay vào đó nên củng cố một số điều trong mười phẩm hạnh tốt,và đã giúp cho những kẻ khác đi xuất gia, (không nghi ngờ về sự xuất gia của những người sáng suốt mà chính bản thân Như Lai đã xuất gia), ngài đã chứng minh chúng, tùy theo công đức của chúng, kiểm soát bản thân bằng thói quen đạo đức, gìn giữ các căn, chánh niệm, tỉnh giác dục lạc, tự tại, thiền dịnh và hiểu biết sâu sắc.
[44] Túc sanh truyện vattaka số 35, đối chiếu Túc sanh truyện Màlà số 16.
[45] Vattakaràjacariyam ở bản chú giải Hạnh Tạng 233.
[46] Bản Hạnh Tạng La tinh, bản in ở Rangoon viết là davadàho, bản ở Colombo -dhàho.
[47] Pàvaka, văn chương người trong sạch.
[48] Sikhin, văn chương, có ngọn (lửa).
[49] "Khói" bản chú giải viết rằng "do đó tạo nên âm thanh dhama dhama. Ðiều này bao hàm tiếng vang của đám cháy rừng". Ðối chiếu phẩm I. 10. 16.
[50] Aggi.
[51] Pajahàmi. Bản chú giải Hạnh Tạng 234 giải thích bằng pasàremi iriyàmi vayàmi, thàmi, patìhàmi khác, "Như Lai chiến đấu" được giải thích như là vehàsagamanayogge kàtumìthàmi.
[52] Agatika, người không đi được.
[53] Bản chú giải Hạnh Tạng biết "bởi vì Như Lai không thể đi được thành ra Như Lai không có chỗ nương náu do bởi sự bỏ đi của cha mẹ mình, tattha (ở đó) lưu lại ở trong rừng đó... hoặc ở trong tổ".
[54] Những lời kệ 8 đến nữa đường qua 11 cũng như ở Túc sanh truyện i. 214f.
[55] Avassàya, Túc sanh truyện I. 214 apa-
[56] Nói đến đôi cánh và chân của Như Lai, bản chú giải Hạnh Tạng 235.
[57] Tên dùng cho agni, bản chú giải Hạnh Tạng viết "được bốc lên, jàta, người ta cảm nhận, vediyati, nó trở thành biểu tượng với sự xuất hiện của khói và ngọn lửa cháy rực, do đó jàtaveda".
[58] Sikhin, văn chương có ngọn (lửa).
[59] Một karìsa dường như là một miếng đất vuông có lẽ tương đương bốn mẫu. Xem Rhys Davis, sách tiền xu cổ và hệ thống đo lường của Tích Lan trang 18. Túc sanh truyện I. 172, nói đến Túc sanh truyện Vattaka, nói rằng đây là một trong bốn điều phi thường sẽ kéo dài suốt trong (kiếp này) đặc biệt là nơi này sẽ không bao giờ bị hỏa hoạn. Ðiều này cũng được nói trong phần cuối cùng của Túc sanh truyện Vattaka.
[60] Sử dụng lại từ Sikhin, ở đây bản chú giải Hạnh Tạng giải thích như là một trận hỏa hoạn. Jàtaveda, nó bị dập tắt giống như bó đuốc bị nhúng vào nước.
[61] Túc sanh truyện Maccha số 75, BCL đồng hóa với số 34, đối chiếu Túc sanh truyện Màlà số 15.
[62] Unho, mà bản chú giải Hạnh Tạng nói rằng là mùa nóng.
[63] Bản Hạnh Tạng La tinh, bản Hạnh Tạng Colombo viết là bakà, bản ở Rangoon là kankà.
[64] Con cá chui vào trong bùn ở dưới đáy hồ.
[65] Dhammatha, sự tốt lành nơi Dhamana; mục đích của nó, ý nghĩa của nó? Bản chú giải Hạnh Tạng giải thích bằng dhammabhùtam attham Dhammato và anapetam attham, "điều tốt lành đó trở thành giáo pháp. Hoặc, điều tốt lành đó không xa rời khỏi giáo pháp"
[66] Đó là việc không làm hại kẻ khác ngay cả một sinh vật nhỏ bé, bản chú giải Hạnh Tạng 238.
[67] Bản Hạnh Tạng La tinh viết là Vihimsitam, các bản in ở Colombo, Rangoon viết là pihini- một sự quả quyết giống như thế được thực hiện như ở Túc sanh truyện IV. 142 và đối chiếu Trung bộ II. 103.
[68] Ðược gọi là megha (cơn bão) đám mây, bản chú giải Hạnh Tạng 238. Túc sanh truyện I. 332 ở bản chú giải Tương ưng bộ kinh 81, ngài được gọi là thần sấm, thần mưa.
[69] Mặc dù Kàla ở số ít, số nhiều là ý định, hoặc một bầy quạ, kàlasamgha, bản chú giải Hạnh Tạng 238f.
[70] Bản Hạnh Tạng La tinh, bản chú giải Hạnh Tạng, bản Hạnh Tạng ở Colombo viết là rundhehi, bản Hạnh Tạng Rangoon và Túc sanh truyện I. 332 viết ran- được lưu ý như là một động từ ở bản Hạnh Tạng Colombo.
[71] Macche bản chú giải Hạnh Tạng 239 nói rằng điều này có nghĩa: tất cả loài cá là họ hàng của tôi (Như Lai); nói thêm rằng chúng đọc là manca, và tôi ở Túc sanh truyện, và sau đó nói: "hãy trả tự do cho tôi và họ hàng của tôi"
[72] Đối chiếu Tương ưng bộ kinh I. 100 ở bản sự kinh, ở bản chú giải Hạnh Tạng, Túc sanh truyện I. 332 người ta nói rằng trời mưa khắp xứ Kasala.
[73] Katvà, thực hiện, đã thực hiện, dùng với viriyam uttamam ở bản chú giải Hạnh Tạng 240.
[74] Túc sanh truyện Kanhadìpàyana số 444.
[75] Bản chú giải Hạnh Tạng 241 giải thích rằng tên của Bồ-tát sau đó là Dìpàyana, nhưng thân thể của ngài hóa thành màu đen khi ngài nằm ở dưới thân thể của người bạn ngài, Mandabya bị cắm trên cọc nhọn, máu đang nhỏ xuống, người được mọi người biết với cái tên Dìpayana người M.
[76] Anabhirati, đối chiếu BD (Book of Discipline) của I. B. Horner. 1, 114, 192.
[77] Bản Hạnh Tạng La tinh viết là pi, bản chú giải Hạnh Tạng 242. Các bản Hạnh Tạng in ở Colombo, Rangoon là hi.
[78] Bản Hạnh Tạng viết aratimme ratimànase. Tôi theo Hạnh Tạng in ở Colombo, Rangoon là arit me carait mànase, và những từ giải thích ở bản chú giải Hạnh Tạng mama mànase citte arati pavattati.
[79] Trong một tiền kiếp ngài đã dùng một miếng gỗ mun đâm chết con ruồi.
[80] Àpucchati thường dùng để xin phép để thúc đẩy ai ban một lợi lộc. Ở đây Mandabya đã xây dựng những cốc cho Dìpayana và các đạo sĩ khổ hạnh khác.
[81] Chơi một trò chơi gọi là genduka, bản chú giải Hạnh Tạng 246.
[82] Quả bóng lăn vào tổ kiến và đụng nhằm con rắn nằm phía trong, ở trên đầu.
[83] Bản Hạnh Tạng La tinh viết là ativìsena, bản chú giải Hạnh Tạng 246, bản Hạnh Tạng ở Colombo, Rangoon viết àsì.
[84] Bản chú giải Hạnh Tạng cũng vậy.
[85] Vàhasi, "nó liên quan đến sự thương xót của tôi cũng như thân thể của tôi", cùng trong sách.
[86] Câu kệ 11, 12 ở Túc sanh truyện IV. 31.
[87] Hạnh Tạng La tinh, Hạnh Tạng ở Colombo viết mama yidam, Hạnh Tạng Rangoon mamedam.
[88] Cùng một dòng ở Trường bộ ii, 151. Ở DAT. II. 236 samàdhikàni, "và thêm nữa" được giải thích bằng ekena vassena, mà tổng cộng là 51 năm. Bản chú giải Hạnh Tạng là im lặng.
[89] Etena saccena suvatthi hotu, đối chiếu dấu hiệu an toàn của ANgulimàla ở Mi Tiên vấn đáp ii. 103, tena saccena sotthi hotu.
[90] Tên của người thanh niên.
[91] Túc sanh truyện Mahàsutasoma số 537, Túc sanh truyện Màlà số 31.
[92] Bản Hạnh Tạng La tinh viết Sankara, bản chú giải Hạnh Tạng 251, các bản Hạnh Tạng ở Colombo, Rangoon, Túc sanh truyện V. 481 viết Sangara.
[93] Bản chú giải Hạnh Tạng nói rằng ông ta dùng một sợi dây thừng xỏ xâu qua các bàn tay của họ để treo họ trên một cái cây.
[94] Sampamilàpetvà, bản chú giải Hạnh Tạng pamilàpetvà, héo khô, visosetvà, bị làm khô héo, khedàpetvà, tra tấn. Hoặc có phải nó ở từ gốc mil, và không phải mlà, như được gợi ý bởi bản chú giải Hạnh Tạng và được từ điển Pàli Anh chấp nhận? Nhưng đối chiếu pamilàta ở Mi Tiên vấn đáp 303, hiển nhiên có ý nghĩa làm cho khô héo.
[95] Bản Hạnh Tạng La tinh, bản chú giải Hạnh Tạng 254 viết là nissajjam, các bản Hạnh Tạng ở Colombo, Rangoon viết là nissajam, nghĩa là từ bàn tay của kẻ ăn thịt người.
[96] Tôi không thấy lời kệ này ở Túc sanh truyện số 537, cũng không thấy sự khác biệt như nó được mô tả ở Túc sanh truyện I. 46, bản chú giải Phật Tông. Bản chú giải Apàdana 51 để minh họa sự cao cả của độ chân thật, paramatthapàramì, nhưng bản chú giải Phật Tông 60 đọc là esà me saccapàramì.
Hết phần Phẩm III - Chân Thật Độ (Saccapāramitā)

(Lên đầu trang)


Hạnh Tạng dịch từ tiếng Anh có tổng cộng 8 phần.
Xem phần trước           ||||           Xem phần tiếp theo


Tải về dạng file RTF
Close
Close