Quay lại bản Việt dịch

Font chữ:
Font chữ:

Chương Năm - Tương Ưng Sāmandaka

Dịch giả: Thích Minh Châu

I. Niết Bàn (S.iv,261)
1) Một thời Tôn giả Sàriputta ở giữa dân chúng Vajji, trên bờ sông Hằng, tại Ukkavelà.
2) Rồi du sĩ Sàmandaka đi đến Tôn giả Sàriputta; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Sàriputta những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên.
3) Ngồi một bên, du sĩ Sàmandaka thưa với Tôn giả Sàriputta:
-- "Niết-bàn, Niết-bàn", này Hiền giả Sàriputta, được nói đến như vậy. Này Hiền giả, thế nào là Niết-bàn? (Giống như kinh trước, Chương Bốn I, từ số 3 đến số 6.)
II-XV.(S.iv,262)
(Giống như trong Chương Bốn, số 2-15, với những thay đổi cần thiết).
XVI. Khó Làm (S.iv,262)
(Giống như Chương Bốn, số 16)

Chapter V. Connected Discourses with Sāmaṇḍaka

Translated by: Bhikkhu Boddhi

1-16 A Question on Nibbāna, Etc.

On one occasion the Venerable Sāriputta was dwelling among the Vajjians at Ukkacelā. Then the wanderer Sāmaṇḍaka approached the Venerable Sāriputta and exchanged greetings with him. When they had concluded their greetings and cordial talk, he sat down to one side and said to the Venerable Sāriputta:
“Friend Sāriputta, it is said, ‘Nibbāna, Nibbāna.’ What now is Nibbāna?”…
(The remainder of this saṃyutta is identical with the preceding one except for the identity of the interlocutor. ) [262]
“But, friend, if a bhikkhu is practising in accordance with the Dhamma, would it take him long to become an arahant?”
“Not long, friend.”



Close
Close