I. Lý (S.iii,235)
1) Một thời Tôn giả Sàriputta trú ở Sàvatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc).
2) Rồi Tôn giả Sàriputta, vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát, đi vào Sàvatthi để khất thực.
3-4) Ði khất thực xong, sau buổi ăn, trên con đường đi khất thực về, Tôn giả đi đến Andhavana để nghỉ trưa. Sau khi đi vào rừng Andha, Tôn giả đến ngồi nghỉ trưa dưới một gốc cây.
5) Rồi Tôn giả Sàriputta, vào buổi chiều, từ chỗ tịnh cư đứng dậy, đi đến Jetavana, vườn ông Anàthapindika.
6) Tôn giả Ananda thấy Tôn giả Sàariputta từ xa đi đến; sau khi thấy, liền nói với Tôn giả Sàriputta:
-- Hiền giả Sàriputta, các căn của Hiền giả lắng dịu, sắc mặt được thanh tịnh, trong sáng. Hôm nay, Hiền giả an trú với sự an trú nào?
7) -- Ở đây, này Hiền giả, ly dục, ly pháp bất thiện, tôi chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Này Hiền giả, tôi không khởi lên ý nghĩ: "Tôi đang chứng nhập Thiền thứ nhất", hay "Tôi đã chứng nhập Thiền thứ nhất", hay "Tôi đã ra khỏi Thiền thứ nhất".
8) -- Như vậy chắc chắn Hiền giả trong một thời gian dài, đã khéo nhổ tận gốc các tùy miên ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn. Do vậy, Tôn giả Sàriputta không khởi lên ý nghĩ: "Tôi đang chứng nhập Thiền thứ nhất", hay "Tôi đã chứng nhập Thiền thứ nhất", hay "Tôi đã ra khỏi Thiền thứ nhất".
II. Không Tầm
1-5) Một thời Tôn giả Sàriputta trú ở Sàvatthi...
6) Tôn giả Ananda thấy Tôn giả Sàriputta từ xa đi đến; sau khi thấy, liền nói với Tôn giả Sàriputta:
-- Hiền giả Sàriputta, các căn của Hiền giả lắng dịu, sắc mặt được thanh tịnh, trong sáng. Hôm nay Hiền giả an trú với sự an trú nào?
7) -- Ở đây, này Hiền giả, làm cho lắng dịu tầm và tứ, tôi chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhứt tâm. Tôi không có khởi lên ý nghĩ: "Tôi đang chứng nhập Thiền thứ hai", hay "Tôi đã chứng nhập Thiền thứ hai", hay "Tôi đã ra khỏi Thiền thứ hai".
8) -- Như vậy, chắc chắn Hiền giả trong một thời gian dài, đã khéo nhổ tận gốc các tùy miên ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn. Do vậy, Tôn giả Sàriputta không khởi lên ý nghĩ: "Tôi đang chứng nhập Thiền thứ hai", hay "Tôi đã chứng nhập Thiền thứ hai", hay "Tôi đã ra khỏi Thiền thứ hai".
III. Hỷ
1-5) Một thời Tôn giả Sàriputta trú ở Savatthi...
6) Tôn giả Ananda thấy Tôn giả Sàriputta từ xa đi đến; sau khi thấy, liền nói với Tôn giả Sàriputta:
-- Hiền giả Sàriputta, các căn của Hiền giả lắng dịu, sắc mặt được thanh tịnh, trong sáng. Hôm nay Hiền giả an trú với sự an trú nào?
7-8) -- Ở đây, này Hiền giả, ly hỷ và trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là: "Xả niệm lạc trú", tôi chứng đạt và an trú Thiền thứ ba. Này Hiền giả, tôi không khởi lên ý nghĩ: "Tôi đang chứng nhập Thiền thứ ba", hay "Tôi đã chứng nhập Thiền thứ ba", hay "Tôi đã ra khỏi Thiền thứ ba".
-- Như vậy, chắc chắn Hiền giả trong một thời gian... hay "Tôi đã ra khỏi Thiền thứ ba".
IV. Xả
1-5) Một thời Tôn giả Sàriputta trú ở Sàvatthi...
6) Tôn giả Ananda thấy Tôn giả Sàriputta từ xa đi đến... với sự an trú nào?
7) -- Ở đây, này Hiền giả, xả lạc và xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ từ trước, tôi chứng đạt và an trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này Hiền giả, tôi không khởi lên ý nghĩ: "Tôi đang chứng nhập Thiền thứ tư", hay "Tôi đã chứng nhập Thiền thứ tư", hay "Tôi đã ra khỏi Thiền thứ tư".
8) -- Như vậy, chắc chắn Hiền giả... hay "Tôi đã ra khỏi Thiền thứ tư".
V. Không Vô Biên Xứ
1-6) Một thời Tôn giả Sàriputta trú ở Sàvatthi...
... Tôn giả Ananda thấy... với sự an trú nào?
7-8) -- Ở đây, này Hiền giả, vượt lên hoàn toàn sắc tưởng, đoạn diệt hữu đối tưởng, không tác ý các dị tưởng, với ý nghĩ: "Hư không là vô biên", tôi chứng đạt và an trú Không vô biên xứ. Này Hiền giả, tôi không khởi lên ý nghĩ... hay "Tôi đã ra khỏi Không vô biên xứ".
-- Như vậy, chắc chắn Hiền giả... "Tôi đã ra khỏi Không vô biên xứ".
VI. Thức Vô Biên Xứ
1-6) Một thời, Tôn giả Sàriputta trú ở Sàvatthi...
... Tôn giả Ananda thấy... với sự an trú nào?
7-8) -- Ở đây, này Hiền giả, vượt qua hoàn toàn Không vô biên xứ, với ý nghĩ: "Thức là vô biên", tôi chứng đạt và an trú Thức vô biên xứ... hay "... đã ra khỏi Thức vô biên xứ".
VII. Vô Sở Hữu Xứ
1-6) Một thời Tôn giả Sàriputta trú ở Sàvatthi.
... Tôn giả Ananda thấy... với sự an trú nào?
7-8) -- Ở đây, này Hiền giả, vượt qua hoàn toàn Thức vô biên xứ, với ý nghĩ: "Không có vật gì", tôi chứng đạt và an trú Vô sở hữu xứ... hay "... đã ra khỏi Vô sở hữu xứ".
VIII. Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ
1-6) Một thời, Tôn giả Sàriputta trú ở Sàvatthi.
... Tôn giả Ananda thấy... với sự an trú nào?
7-8) -- Ở đây, này Hiền giả, vượt qua hoàn toàn Vô sở hữu xứ, tôi chứng đạt và an trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ... hay "... đã ra khỏi Phi tưởng phi phi tưởng xứ".
IX. Diệt Tận Ðịnh (Tạp 18, Ðại 2, 131) (S.iii,238)
1-6) Một thời Tôn giả Sàriputta trú ở Sàvatthi...
... Tôn giả Ananda thấy... với sự an trú nào?
7-8) -- Ở đây, này Hiền giả, vượt qua hoàn toàn Phi tưởng phi phi tưởng xứ, tôi chứng đạt và an trú Diệt thọ tưởng định. Nhưng này Hiền giả, tôi không khởi lên ý nghĩ: "Tôi đang chứng nhập Diệt thọ tưởng định", hay " Tôi đã chứng nhập Diệt thọ tưởng định", hay "Tôi đã ra khỏi Diệt thọ tưởng định".
-- Như vậy, chắc chắn Hiền giả trong một thời gian dài đã khéo nhổ tận gốc các tùy miên ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn. Do vậy Tôn giả Sàriputta không khởi lên ý nghĩ: "Tôi đang chứng nhập Diệt thọ tưởng định", hay "Tôi đã chứng nhập Diệt thọ tưởng định", hay "Tôi đã ra khỏi Diệt thọ tưởng định".
X. Sùcimukhi (Tịnh Diện) (S.iii,238)
1) Một thời Tôn giả Sàriputta trú ở Ràjagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm), tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc.
2) Rồi Tôn giả Sàriputta, vào buổi sáng. đắp y, cầm y bát, đi vào Ràjagaha để khất thực. Sau khi đi khất thực từng nhà một ở Ràjagaha (Vương Xá), Tôn giả ngồi dựa vào một bức tường, dùng đồ ăn khất thực.
3) Rồi một nữ du sĩ ngoại đạo Sùcimukhi đi đến Tôn giả Sàriputta; sau khi đến, nói với Tôn giả Sàriputta:
4) -- Này Sa-môn, có phải Ông ăn, cúi mặt xuống?
-- Này Chị, tôi ăn, không cúi mặt xuống.
5) -- Vậy Sa-môn, Ông ăn, ngưỡng mặt lên?
-- Này Chị, tôi ăn, không ngưỡng mặt lên.
6) -- Vậy Sa-môn, Ông ăn, hướng mặt về bốn phương chính?
-- Này Chị, tôi ăn, không có hướng mặt về bốn phương chính.
7) -- Vậy Sa-môn, Ông ăn, hướng mặt về bốn phương phụ?
-- Này Chị, tôi ăn, không có hướng mặt về bốn phương phụ.
8) -- Ðược hỏi: "Này Sa-môn, có phải Ông ăn, cúi mặt xuống?" Ông trả lời: "Này Chị, tôi ăn, không cúi mặt xuống". Ðược hỏi: "Vậy này Sa-môn, Ông ăn, ngưỡng mặt lên?" Ông đáp: "Này Chị, tôi ăn, không ngưỡng mặt lên". Ðược hỏi: "Vậy này Sa-môn, Ông ăn, hướng mặt về bốn phương chính?" Ông đáp: "Này Chị, tôi ăn, không hướng mặt về bốn phương chính". Ðược hỏi: "Vậy Sa-môn, Ông ăn, hướng mặt về bốn phương phụ?" Ông đáp: "Này Chị, tôi ăn, không hướng mặt về bốn phương phụ". Vậy này Sa-môn, Ông ăn, hành động như thế nào?
9) -- Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào, này Chị, nuôi sống bằng những tà mạng như địa lý (nakkhattavijjà) và súc sanh minh (nghề hèn hạ); này Chị, các vị ấy được gọi là các Sa-môn, Bà-la-môn ăn cúi mặt xuống.
10) Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào, này Chị, nuôi sống bằng những tà mạng như thiên văn (nakkhattavijjà) và súc sanh minh (nghề hèn hạ); này Chị, các vị ấy được gọi là các Sa-môn, Bà-la-môn ăn ngưỡng mặt lên.
11) Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào, này Chị, nuôi sống bằng những tà mạng như đưa tin tức, làm trung gian môi giới; này Chị, các vị ấy được gọi các Sa-môn, Bà-la-môn ăn hướng mặt về bốn phương chính.
12) Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào, này Chị, nuôi sống bằng những tà mạng như bói toán, và các nghề hèn hạ; này Chị, các vị ấy được gọi những Sa-môn, Bà-la-môn ăn hướng mặt về bốn phương phụ.
13) Còn ta, này Chị, ta không nuôi sống bằng những tà mạng như địa lý và các nghề hèn hạ; ta không nuôi sống bằng những tà mạng như thiên văn và các nghề hèn hạ; ta không nuôi sống bằng những tà mạng như đưa tin tức, làm trung gian môi giới; ta cũng không nuôi sống bằng những tà mạng như bói toán và các nghề hèn hạ. Ta tìm món ăn một cách hợp pháp. Sau khi tìm món ăn một cách hợp pháp, ta dùng các món ăn ấy.
14) Rồi nữ tu sĩ ngoại đạo Sùcimukhi đi từ đường này qua đường khác, từ ngã tư này qua ngã tư khác ở thành Vương Xá, và tuyên bố: "Sa-môn Thích tử dùng các món ăn một cách hợp pháp. Sa-môn Thích tử dùng các món ăn một cách không có lỗi lầm. Hãy cúng dường các món ăn cho Sa-môn Thích tử".
Chapter VII. Connected Discourses with Sāriputta
Translated by: Bhikkhu Boddhi
1 Born of Seclusion
On one occasion the Venerable Sāriputta was dwelling at Sāvatthī in Jeta’s Grove, Anāthapiṇḍika’s Park.
Then, in the morning, the Venerable Sāriputta dressed and, taking bowl and robe, entered Sāvatthī for alms. Then, when he had walked for alms in Sāvatthī and had returned from the alms round, after his meal he went to the Blind Men’s Grove for the day’s abiding. Having plunged into the Blind Men’s Grove, he sat down at the foot of a tree for the day’s abiding.
Then, in the evening, the Venerable Sāriputta emerged from seclusion and went to Jeta’s Grove, Anāthapiṇḍika’s Park. The Venerable Ānanda saw the Venerable Sāriputta coming in the distance and said to him: “Friend Sāriputta, your faculties are serene, your facial complexion is pure and bright. In what dwelling has the Venerable Sāriputta spent the day?”275
“Here, friend, secluded from sensual pleasures, secluded from unwholesome states, I entered and dwelt in the first jhāna, which is accompanied by thought and examination, with rapture and happiness born of seclusion. Yet, friend, it did not occur to me, ‘I am attaining the first jhāna,’ or ‘I have attained the first jhāna,’ or ‘I have emerged from the first jhāna.’” [236]
“It must be because I-making, mine-making, and the underlying tendency to conceit have been thoroughly uprooted in the Venerable Sāriputta for a long time that such thoughts did not occur to him.”276
2 Without Thought
At Sāvatthī…. (as above) … The Venerable Ānanda saw the Venerable Sāriputta coming in the distance and said to him: “Friend Sāriputta, your faculties are serene, your complexion is pure and bright. In what dwelling has the Venerable Sāriputta spent the day?”
“Here, friend, with the subsiding of thought and examination, I entered and dwelt in the second jhāna, which has internal confidence and unification of mind, is without thought and examination, and has rapture and happiness born of concentration. Yet, friend, it did not occur to me, ‘I am attaining the second jhāna,’ or ‘I have attained the second jhāna,’ or ‘I have emerged from the second jhāna.’”
“It must be because I-making, mine-making, and the underlying tendency to conceit have been thoroughly uprooted in the Venerable Sāriputta for a long time that such thoughts did not occur to him.”
3 Rapture
At Sāvatthī…. The Venerable Ānanda saw the Venerable Sāriputta coming in the distance….
“Here, friend, with the fading away as well of rapture, I dwelt equanimous and, mindful and clearly comprehending, I experienced happiness with the body; I entered and dwelt in the third jhāna of which the noble ones declare: ‘He is equanimous, mindful, one who dwells happily.’
[237] Yet, friend, it did not occur to me, ‘I am attaining the third jhāna….’” (Complete as in preceding sutta.)
4 Equanimity
At Sāvatthī…. The Venerable Ānanda saw the Venerable Sāriputta coming in the distance….
“Here, friend, with the abandoning of pleasure and pain, and with the previous passing away of joy and displeasure, I entered and dwelt in the fourth jhāna, which is neither painful nor pleasant and includes the
purification of mindfulness by equanimity. Yet, friend, it did not occur to me, ‘I am attaining the fourth jhāna….’” 5 The Base of the Infinity of Space
At Sāvatthī…. The Venerable Ānanda saw the Venerable Sāriputta coming in the distance….
“Here, friend, with the complete transcendence of perceptions of forms, with the passing away of perceptions of sensory impingement, with nonattention to perceptions of diversity, aware that ‘space is infinite,’ I entered and dwelt in the base of the infinity of space. Yet, friend, it did not occur to me, ‘I am attaining the base of the infinity of space….’”
6 The Base of the Infinity of Consciousness
At Sāvatthī…. The Venerable Ānanda saw the Venerable Sāriputta coming in the distance….
“Here, friend, by completely transcending the base of the infinity of space, aware that ‘consciousness is infinite,’ I entered and dwelt in the base of the infinity of consciousness. Yet, friend, it did not occur to me, ‘I am attaining the base of the infinity of consciousness…. ’”
7 The Base of Nothingness
At Sāvatthī…. The Venerable Ānanda saw the Venerable Sāriputta coming in the distance….
“Here, friend, by completely transcending the base of the infinity of consciousness, aware that ‘there is nothing,’ I entered and dwelt in the base of nothingness. Yet, friend, it did not occur to me, ‘I am attaining the base of nothingness….’” [238]
8 The Base of Neither-Perception-Nor-Nonperception
At Sāvatthī…. The Venerable Ānanda saw the Venerable Sāriputta coming in the distance….
“Here, friend, by completely transcending the base of nothingness, I entered and dwelt in the base of neither-perception-nor-nonperception. Yet, friend, it did not occur to me, ‘I am attaining the base of neither-perception- nor-nonperception….’”
9 The Attainment of Cessation
At Sāvatthī…. The Venerable Ānanda saw the Venerable Sāriputta coming in the distance….
“Here, friend, by completely transcending the base of neither-perception- nor-nonperception, I entered and dwelt in the cessation of perception and feeling. Yet, friend, it did not occur to me, ‘I am attaining the cessation of perception and feeling,’ or ‘I have attained the cessation of perception and feeling,’ or ‘I have emerged from the cessation of perception and feeling.’”
“It must be because I-making, mine-making, and the underlying tendency to conceit have been thoroughly uprooted in the Venerable Sāriputta for a long time that such thoughts did not occur to him.”
10 Sucimukhī
On one occasion the Venerable Sāriputta was dwelling at Rājagaha in the Bamboo Grove, the Squirrel Sanctuary. Then, in the morning, the Venerable Sāriputta dressed and, taking bowl and robe, entered Rājagaha for alms. Then, when he had walked for alms on continuous alms round in Rājagaha,277 he ate that almsfood leaning against a certain wall.
Then the female wanderer Sucimukhī approached the Venerable Sāriputta and said to him: “Ascetic, do you eat facing downwards?ʺ278
“I don’t eat facing downwards, sister.” “Then, ascetic, do you eat facing upwards?” “I don’t eat facing upwards, sister.” [239]
“Then, ascetic, do you eat facing the [four] quarters?”279
“I don’t eat facing the [four] quarters, sister.”
“Then, ascetic, do you eat facing the intermediate directions?” “I don’t eat facing the intermediate directions, sister.”
“When you are asked, ‘Ascetic, do you eat facing downwards? ’… ‘Do you eat facing the intermediate directions?’ you reply, ‘I don’t eat thus, sister.’ How then do you eat, ascetic?”
“Sister, those ascetics and brahmins who earn their living by the debased art of geomancy280—a wrong means of livelihood—these are called ascetics and brahmins who eat facing downwards. Those ascetics and brahmins who earn their living by the debased art of astrology281—a wrong means of livelihood—these are called ascetics and brahmins who eat facing upwards. Those ascetics and brahmins who earn their living by undertaking to go on errands and run messages282—a wrong means of livelihood—these are called ascetics and brahmins who eat facing the [four] quarters. Those ascetics and brahmins who earn their living by the debased art of palmistry283—a wrong means of livelihood—these are called ascetics and brahmins who eat facing the intermediate directions.
“Sister, I do not earn my living by such wrong means of livelihood as the debased art of geomancy, or the debased art of astrology, or by undertaking to go on errands and run messages, or by the debased art of palmistry. I seek almsfood righteously and, having sought it, I eat my almsfood righteously.” [240]
Then the female wanderer Sucimukhī went from street to street and from square to square in Rājagaha announcing: “The ascetics following the Sakyan son eat righteous food; they eat blameless food. Give almsfood to the ascetics following the Sakyan son.”
1