Quay lại bản Việt dịch

Font chữ:
Font chữ:

Chương Một - Tương Ưng Uẩn (10)

Dịch giả: Thích Minh Châu

II. Phẩm Thuyết Pháp
I. Vô Minh (Hay Vị Tỷ-kheo) (S.iii,162)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
2) Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn...
3) Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
-- "Vô minh, vô minh", bạch Thế Tôn, như vậy được nói đến. Bạch Thế Tôn, thế nào là vô minh? Cho đến như thế nào, một người là vô minh?
4-8) -- Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu không biết rõ sắc, không biết rõ sắc tập khởi, không biết rõ sắc đoạn diệt, không biết rõ con đường đưa đến sắc đoạn diệt, không biết rõ thọ... không biết rõ tưởng... không biết rõ các hành... không biết rõ con đường đưa đến thức đoạn diệt.
9) Này Tỷ-kheo, đây gọi là vô minh. Và cho đến như vậy, một người là vô minh.
II. Minh (Hay Vị Tỷ-kheo) (S.iii,163)
1-4) Nhân duyên ở Sàvatthi... Ngồi xuống một bên, vị Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
-- "Minh, minh", bạch Thế Tôn, như vậy được nói đến. Bạch Thế Tôn, như thế nào là minh? Cho đến như thế nào, một người là minh?
5) -- Ở đây, này Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử biết rõ sắc, biết rõ sắc tập khởi, biết rõ sắc đoạn diệt, biết rõ con đường đưa đến sắc đoạn diệt.
6-8)... biết rõ thọ... biết rõ tưởng... biết rõ các hành... biết rõ con đường đưa đến thức đoạn diệt.
9) Này Tỷ-kheo, đây gọi là minh. Và cho đến như vậy, một người là minh.
III. Vị Thuyết Pháp (Tập 3, Ðại 2,5c) (S.iii,163)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) Sau khi ngồi xuống, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
-- "Vị thuyết pháp, vị thuyết pháp", bạch Thế Tôn, như vậy được nói đến. Cho đến như thế nào, được gọi là vị thuyết pháp?
4) -- Nếu Tỷ-kheo thuyết pháp về sự nhàm chán, ly tham, đoạn diệt đối với sắc; như vậy là vừa đủ để được gọi là Tỷ-kheo thuyết pháp. Nếu Tỷ-kheo đi vào thực hành sự nhàm chán, ly tham, đoạn diệt đối với sắc; như vậy là vừa đủ để được gọi là Tỷ-kheo thực hành pháp tùy pháp. Nếu Tỷ-kheo do nhàm chán, ly tham, đoạn diệt đối với sắc, được giải thoát, không có chấp thủ; như vậy là vừa đủ để được gọi là Tỷ-kheo đã đạt được Niết-bàn ngay trong hiện tại.
5-7) Nếu Tỷ-kheo đối với thọ... Nếu Tỷ-kheo đối với tưởng... Nếu Tỷ-kheo đối với các hành...
8) Nếu Tỷ-kheo thuyết pháp về sự nhàm chán, ly tham, đoạn diệt đối với thức; như vậy là vừa đủ để được gọi là Tỷ-kheo thuyết pháp. Nếu Tỷ-kheo đi vào thực hành sự nhàm chán, ly tham, đoạn diệt đối với thức; như vậy là vừa đủ để được gọi là Tỷ-kheo thực hành pháp tùy pháp. Nếu Tỷ-kheo do nhàm chán, ly tham, đoạn diệt đối với thức, được giải thoát không có chấp thủ; như vậy là vừa đủ để được gọi là Tỷ-kheo đã đạt được Niết-bàn ngay trong hiện tại.
IV. Vị Thuyết Pháp (S.iii,164)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
2) Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
-- "Vị thuyết pháp, vị thuyết pháp", bạch Thế Tôn, như vậy được nói đến. Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, được gọi là vị thuyết pháp? Cho đến như thế nào, được gọi là vị thực hành pháp tùy pháp? Cho đến như thế nào, được gọi là vị đã đạt đến Niết-bàn ngay trong hiện tại?
3-4) -- Nếu Tỷ-kheo thuyết pháp về sự nhàm chán, ly tham, đoạn diệt đối với sắc; như vậy là vừa đủ để được gọi là Tỷ-kheo thuyết pháp. Nếu Tỷ-kheo đi vào thực hành sự nhàm chán, ly tham, đoạn diệt đối với sắc; như vậy là vừa đủ để được gọi là Tỷ-kheo thực hành pháp tùy pháp. Nếu Tỷ-kheo do nhàm chán, ly tham, đoạn diệt đối với sắc, được giải thoát, không có chấp thủ; như vậy là vừa đủ để được gọi là Tỷ-kheo đã đạt được Niết-bàn ngay trong hiện tại.
5-7) Nếu Tỷ-kheo đối với thọ... đối với tưởng... đối với các hành...
8) Nếu Tỷ-kheo thuyết pháp về sự nhàm chán, ly tham, đoạn diệt đối với thức; như vậy là vừa đủ để được gọi là Tỷ-kheo thuyết pháp. Nếu Tỷ-kheo đi vào thực hành sự nhàm chán, ly tham, đoạn diệt đối với thức; như vậy là vừa đủ để được gọi là Tỷ-kheo thực hành pháp tùy pháp. Nếu Tỷ-kheo do nhàm chán, ly tham, đoạn diệt đối với thức, được giải thoát, không có chấp thủ; như vậy là vừa đủ để được gọi là Tỷ-kheo đã đạt được Niết-bàn ngay trong hiện tại.
V. Trói Buộc (Tạp 2, Ðại 2,19b) (S.iii,164)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu không thấy rõ các bậc Thánh... không tu tập pháp các bậc Chân nhân, quán sắc như là tự ngã, hay tự ngã như là có sắc, hay sắc ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong sắc. Người như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là kẻ vô văn phàm phu, bị trói buộc bởi các trói buộc của sắc, bị trói buộc bởi các trói buộc nội ngoại, kẻ không thấy bờ bên này, kẻ không thấy bờ bên kia, khi sanh bị trói buộc, khi chết bị trói buộc, khi đi từ đời này qua đời khác bị trói buộc.
4-6) ... quán thọ... quán tưởng... quán các hành...
7) Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu không thấy rõ các bậc Thánh... không tu tập pháp các bậc Chân nhân, quán thức như là tự ngã, tự ngã như là có thức, hay thức ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong thức. Người như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là kẻ vô văn phàm phu, bị trói buộc bởi các trói buộc của thức, bị trói buộc bởi các trói buộc của nội ngoại, kẻ không thấy bờ bên này, kẻ không thấy bờ bên kia, khi sanh bị trói buộc, khi chết bị trói buộc, khi đi từ đời này qua đời khác bị trói buộc.
8) Còn vị Ða văn Thánh đệ tử, này các Tỷ-kheo, thấy rõ các bậc Thánh... tu tập pháp các bậc Chân nhân, không quán sắc như là tự ngã, hay tự ngã như là có sắc, hay sắc ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong sắc. Người như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là vị Ða văn Thánh đệ tử, không bị trói buộc bởi các trói buộc của sắc, không bị trói buộc bởi các trói buộc nội ngoại, vị đã thấy bờ bên này, vị đã thấy bờ bên kia. Ta nói, vị ấy được giải thoát hoàn toàn khỏi đau khổ.
9-11) ... Ðối với thọ... với tưởng.... với các hành...
12) ... không quán thức như là tự ngã, hay tự ngã như là có thức, hay thức ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong thức. Vị như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là vị Ða văn Thánh đệ tử, không bị trói buộc bởi sự trói buộc của thức, không bị trói buộc bởi sự trói buộc nội ngoại; vị đã thấy bờ bên này, đã thấy bờ bên kia. Ta nói, vị ấy đã giải thoát hoàn toàn khỏi đau khổ.
VI. Giải Thoát (Tạp 2, Ðại 2,19c) (S.iii,165)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
2) -- Các Ông nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo? Các Ông có quán sắc: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Lành thay! Này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải như thật quán với chánh trí tuệ: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
3-5) ... thọ... tưởng... các hành...
6) ... các Ông có quán thức: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Lành thay! Này các Tỷ-kheo, các Ông phải như thật quán thức với chánh trí tuệ: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
7) Do thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị ấy biết rõ: "... không còn trở lui trạng thái này nữa".
VII. Giải Thoát (Tạp 2, Ðại 2,19c) (S.iii,166)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
2) -- Các Ông nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Ông có quán sắc: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi"?
-- Thưa có, bạch Thế Tôn.
-- Lành thay! Này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải như thật quán sắc với chánh trí tuệ: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
3-5) ... thọ... tưởng... các hành...
6) ... các Ông có quán thức: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi"?
-- Thưa có, bạch Thế Tôn.
-- Lành thay! Này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải như thật quán thức với chánh trí tuệ: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
7) Do thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị ấy biết rõ: "... không còn trở lui trạng thái này nữa".
VIII. Kiết Sử (S.iii,166)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết cho các Ông về các pháp bị trói buộc và sự trói buộc. Hãy lắng nghe.
4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các pháp bị trói buộc? Thế nào là sự trói buộc? Sắc, này các Tỷ-kheo, là pháp bị trói buộc. Dục và tham đối với sắc là sự trói buộc của sắc.
5-7) ... Thọ... Tưởng... Các hành...
8) Thức, này các Tỷ-kheo, là pháp bị trói buộc. Dục và tham đối với thức là sự trói buộc của thức.
9) Này các Tỷ-kheo, các pháp này, này các Tỷ-kheo, được gọi là các pháp bị trói buộc. Ðây là sự trói buộc.
IX. Chấp Thủ (S.iii,167)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết giảng cho các Ông về các pháp bị chấp thủ và sự chấp thủ. Hãy lắng nghe.
4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các pháp bị chấp thủ? Thế nào là sự chấp thủ? Sắc, này các Tỷ-kheo, là pháp bị chấp thủ. Dục và tham đối với sắc là sự chấp thủ đối với sắc.
5-7) ... Thọ... Tưởng... Các hành...
8) Thức, này các Tỷ-kheo, là pháp bị chấp thủ. Dục và tham đối với thức là sự chấp thủ đối với thức.
9) Này các Tỷ-kheo, các pháp này, được gọi là các pháp bị chấp thủ. Ðây là sự chấp thủ.
X. Vị Giữ Giới (Tạp 10, Ðại 2,65b) (S.iii,167)
1) Một thời, Tôn giả Sàriputta (Xá-lợi-phất) và Tôn giả Mahà Kotthika trú ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isipatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển.
2-3) Rồi Tôn giả Mahà Kotthika, vào buổi chiều, từ Thiền tịnh đứng dậy, đi đến Tôn giả Sàriputta... thưa như sau:
-- Thưa Hiền giả Sàriputta, những pháp gì Tỷ-kheo giữ giới cần phải như lý tác ý?
4) -- Này Hiền giả Kotthika, Tỷ-kheo giữ giới cần phải như lý tác ý năm thủ uẩn là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng không, vô ngã.
5) Thế nào là năm? Tức là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Này Hiền giả Kotthika, vị Tỷ-kheo giữ giới cần phải như lý tác ý năm thủ uẩn là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng không, vô ngã.
6) Này Hiền giả, sự kiện này xảy ra: Tỷ-kheo giữ giới do như tác ý năm thủ uẩn này là vô thường... vô ngã, có thể chứng được quả Dự lưu.
7) -- Với Tỷ-kheo đã chứng quả Dự lưu, này Hiền giả Sàriputta, những pháp gì cần phải như lý tác ý?
8-9) -- Với Tỷ-kheo đã chứng quả Dự lưu, này Hiền giả Kotthika, cần phải như lý tác ý năm thủ uẩn này là vô thường... vô ngã. Sự kiện này có thể xảy ra, này Hiền giả, Tỷ-kheo Dự lưu, do như lý tác ý năm thủ uẩn này là vô thường... vô ngã, có thể chứng được quả Nhứt lai.
10) -- Nhưng Tỷ-kheo Nhứt lai, này Hiền giả Sàriputta, phải như lý tác ý các pháp gì?
11) -- Tỷ-kheo Nhứt lai, này Hiền giả Kotthika, phải như lý tác ý năm thủ uẩn này là vô thường... vô ngã. Sự kiện này có thể xảy ra, này Hiền giả, Tỷ-kheo Nhứt lai, do như lý tác ý năm thủ uẩn này là vô thường... vô ngã, có thể chứng được quả Bất lai.
12) -- Nhưng Tỷ-kheo Bất lai, này Hiền giả Sàriputta, cần phải như lý tác ý những pháp gì?
13-15) -- Tỷ-kheo Bất lai, này Hiền giả Kotthika, cần phải như lý tác ý năm thủ uẩn này là vô thường... vô ngã. Sự kiện này có thể xảy ra, này Hiền giả, Tỷ-kheo Bất lai, do như lý tác ý năm thủ uẩn này là vô thường... vô ngã, có thể chứng được quả A-la-hán.
16) -- Nhưng vị A-la-hán, này Hiền giả Sàriputta, cần phải như lý tác ý các pháp gì?
17) -- Vị A-la-hán, này Hiền giả Kotthika, cần phải như lý tác ý năm thủ uẩn này là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng không, vô ngã.
18) Với vị A-la-hán, này Hiền giả, không có gì phải làm nữa, hay không có phải thêm gì nữa trong công việc làm. Nhưng sự tu tập, làm cho sung mãn những pháp này sẽ đưa đến hiện tại lạc trú và chánh niệm tỉnh giác.
XI. Vị Có Nghe (S.iii,169)
(Hoàn toàn như kinh trước, chỉ thay thế vị có nghe cho vị giữ giới ).
XII. Kappa (Tạp 1, Ðại 2,4c) (S.iii,169)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
2) Rồi Tôn giả Kappa đi đến Thế Tôn...
3) Ngồi xuống một bên, Tôn giả Kappa bạch Thế Tôn:
-- Do biết như thế nào, do thấy như thế nào, bạch Thế Tôn, đối với thân có thức này và đối với tất cả tướng ở ngoài, lại không có (tư tưởng) ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn?
4) -- Phàm có sắc gì, này Kappa, thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc thô hay tế, hoặc thắng hay liệt, hoặc xa hay gần; tất cả sắc ấy cần phải như thật quán với chánh trí tuệ là: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
5-7) Phàm có thọ gì... tưởng gì... các hành gì...
8) Phàm có thức gì, này Kappa, thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần; tất cả thức cần phải như quán với chánh trí tuệ là: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
9) Do biết như vậy, do thấy như vậy, này Kappa, đối với thân có thức này, và đối với tất cả tướng ở ngoài, không có (tư tưởng) ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn.
XIII. Kappa (S.iii,170)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
2) Ngồi xuống một bên, Tôn giả Kappa bạch Thế Tôn:
-- Do biết như thế nào, thấy như thế nào, bạch Thế Tôn, đối với thân có thức này và đối với tất cả tướng ở ngoài, tâm ý không còn các tư tưởng ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn, vượt qua kiêu mạn, tịch tịnh, khéo giải thoát?
3) -- Phàm có sắc gì, này Kappa, thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại... tất cả sắc, sau khi như thật quán với chánh trí tuệ là: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi", được giải thoát, không có chấp thủ.
4-6) Phàm có thọ gì... tưởng... các hành...
7) Phàm có thức gì, này Kappa, thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần; tất cả thức, sau khi như thật quán với chánh trí tuệ là: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi", được giải thoát, không có chấp thủ.
8) Do biết như vậy, thấy như vậy, này Kappa, đối với thân có thức này, và trong tất cả tướng ở ngoài, tâm ý không có các tư tưởng ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn, vượt qua kiêu mạn, tịch tịnh, khéo giải thoát.

A SPEAKER ON THE DHAMMA

Translated by: Bhikkhu Boddhi

93 (1) Ignorance

At Sāvatthī. Then a certain bhikkhu approached the Blessed One, paid homage to him, sat down to one side, and said to him:
“Venerable sir, it is said, ‘ignorance, ignorance.’ What now, venerable sir, is ignorance, and in what way is one immersed in ignorance?”
“Here, bhikkhu, the uninstructed worldling does not understand form, its origin, its cessation, and the way leading to its cessation. He does not understand feeling … perception … volitional formations … consciousness, its origin, its cessation, and the way leading to its cessation. [163] This is called ignorance, and in this way one is immersed in ignorance.”
94 (2) True Knowledge
At Sāvatthī…. Sitting to one side, that bhikkhu said to the Blessed One: “Venerable sir, it is said, ‘true knowledge, true knowledge.’ What now,
venerable sir, is true knowledge, and in what way has one arrived at true knowledge?”
“Here, bhikkhu, the instructed noble disciple understands form, its origin, its cessation, and the way leading to its cessation. He understands feeling … perception … volitional formations … consciousness, its origin, its cessation, and the way leading to its cessation. This is called true knowledge, and in this way one has arrived at true knowledge.”
95 (3) A Speaker on the Dhamma (1)
At Sāvatthī…. Sitting to one side, that bhikkhu said to the Blessed One: “Venerable, sir, it is said, ‘a speaker on the Dhamma, a speaker on the
Dhamma.’ In what way, venerable sir, is one a speaker on the Dhamma?”222
“Bhikkhu, if one teaches the Dhamma for the purpose of revulsion towards form, for its fading away and cessation, one can be called a bhikkhu who is a speaker on the Dhamma. If one is practising for the purpose of revulsion towards form, for its fading away and cessation, one can be called a bhikkhu who is practising in accordance with the Dhamma. If, through revulsion towards form, through its fading away and cessation, one is liberated by nonclinging, one can be called a bhikkhu who has attained Nibbāna in this very life.
“Bhikkhu, if one teaches the Dhamma for the purpose of revulsion towards feeling … perception … volitional formations … consciousness, for its fading away and cessation, one can be called a bhikkhu who is a speaker on the Dhamma. If one is practising for the purpose of revulsion towards consciousness, for its fading away and cessation, one can be called a bhikkhu who is practising in accordance with the Dhamma. If, through
revulsion towards consciousness, [164] through its fading away and cessation, one is liberated by nonclinging, one can be called a bhikkhu who has attained Nibbāna in this very life.”
96 (4) A Speaker on the Dhamma (2)
At Sāvatthī…. Sitting to one side, that bhikkhu said to the Blessed One: “Venerable, sir, it is said, ‘a speaker on the Dhamma, a speaker on the
Dhamma.’ In what way, venerable sir, is one a speaker on the Dhamma? In what way is one practising in accordance with the Dhamma? In what way has one attained Nibbāna in this very life?”
(The rest of this sutta is identical with the preceding one.)
97 (5) Bondage
At Sāvatthī. “Here, bhikkhus, the uninstructed worldling … regards form as self, or self as possessing form, or form as in self, or self as in form. This is called, bhikkhus, an uninstructed worldling who is bound by bondage to form, who is bound by inner and outer bondage, who does not see the near shore and the far shore, who grows old in bondage,223 who dies in bondage, who in bondage goes from this world to the other world. [165]
“He regards feeling as self … perception as self … volitional formations as self … consciousness as self, or self as possessing consciousness, or consciousness as in self, or self as in consciousness. This is called, bhikkhus, an uninstructed worldling who is bound by bondage to consciousness … who in bondage goes from this world to the other world.
“But, bhikkhus, the instructed noble disciple … does not regard form as self, or self as possessing form, or form as in self, or self as in form. This is called, bhikkhus, an instructed noble disciple who is not bound by bondage to form, who is not bound by inner and outer bondage, who sees the near shore and the far shore. He is freed from suffering, I say.
“He does not regard feeling as self … perception as self … volitional formations as self … consciousness as self … or self as in consciousness. This is called, bhikkhus, an instructed noble disciple who is not bound by bondage to consciousness…. He is freed from suffering, I say.”
98 (6) Interrogation (1)224
At Sāvatthī. “Bhikkhus, what do you think, do you regard form thus: ‘This is mine, this I am, this is my self’?”
“No, venerable sir.”
“Good, bhikkhus! Form should be seen as it really is with correct wisdom thus: ‘This is not mine, this I am not, this is not my self.’
“Do you regard feeling … perception … volitional formations … [166] consciousness thus: ‘This is mine, this I am, this is my self’?”
“No, venerable sir.”
“Good, bhikkhus! Consciousness should be seen as it really is with correct wisdom thus: ‘This is not mine, this I am not, this is not my self.’
“Seeing thus … He understands: ‘… there is no more for this state of being.’”
99 (7) Interrogation (2)
At Sāvatthī. “Bhikkhus, what do you think, do you regard form thus: ‘This is not mine, this I am not, this is not my self’?”
“Yes, venerable sir.”
“Good, bhikkhus! Form should be seen as it really is with correct wisdom thus: ‘This is not mine, this I am not, this is not my self.’
“Do you regard feeling … perception … volitional formations … consciousness thus: ‘This is not mine, this I am not, this is not my self’?”
“Yes, venerable sir.”
“Good, bhikkhus! Consciousness should be seen as it really is with correct wisdom thus: ‘This is not mine, this I am not, this is not my self.’
“Seeing thus … He understands: ‘… there is no more for this state of being.’”
100 (8) Things That Fetter
At Sāvatthī. “Bhikkhus, I will teach you the things that fetter and the fetter. Listen to that….
“And what, bhikkhus, are the things that fetter, and what is the fetter? Form, bhikkhus, is a thing that fetters; the desire and lust for it is the fetter there. Feeling … Perception … Volitional formations … [167] Consciousness is a thing that fetters; the desire and lust for it is the fetter there. These are called the things that fetter, and this the fetter.”
101 (9) Things That Can Be Clung To
“Bhikkhus, I will teach you the things that can be clung to and the clinging. Listen to that….
“And what, bhikkhus, are the things that can be clung to, and what is the clinging? Form, bhikkhus, is a thing that can be clung to; the desire and lust for it is the clinging there. Feeling … Perception … Volitional formations
… Consciousness is a thing that can be clung to; the desire and lust for it is the clinging there. These are called the things that can be clung to, and this the clinging.”
102 (10) Virtuous
On one occasion the Venerable Sāriputta and the Venerable Mahākoṭṭhita were dwelling at Bārāṇasī in the Deer Park at Isipatana. Then, in the
evening, the Venerable Mahākoṭṭhita emerged from seclusion, approached the Venerable Sāriputta, exchanged greetings, and said to him: “Friend Sāriputta, what are the things that a virtuous bhikkhu should carefully attend to?”
“Friend Koṭṭhita, a virtuous bhikkhu should carefully attend to the five aggregates subject to clinging as impermanent, as suffering, as a disease, as a tumour, as a dart, as misery, as an affliction, as alien, as disintegrating, as empty, as nonself.225 What five? The form aggregate subject to clinging, the feeling aggregate subject to clinging, the perception aggregate subject to clinging, the volitional formations aggregate subject to clinging, the consciousness aggregate subject to clinging. A virtuous bhikkhu should carefully attend to these five aggregates subject to clinging as impermanent
… as nonself. [168] When, friend, a virtuous bhikkhu carefully attends thus to these five aggregates subject to clinging, it is possible that he may realize the fruit of stream-entry.”
“But, friend Sāriputta, what are the things that a bhikkhu who is a stream- enterer should carefully attend to?”
“Friend Koṭṭhita, a bhikkhu who is a stream-enterer should carefully attend to these five aggregates subject to clinging as impermanent … as nonself. When, friend, a bhikkhu who is a stream-enterer carefully attends thus to these five aggregates subject to clinging, it is possible that he may realize the fruit of once-returning.”
“But, friend Sāriputta, what are the things that a bhikkhu who is a once- returner should carefully attend to?”
“Friend Koṭṭhita, a bhikkhu who is a once-returner should carefully attend to these five aggregates subject to clinging as impermanent … as nonself. When, friend, a bhikkhu who is a once-returner carefully attends thus to these five aggregates subject to clinging, it is possible that he may realize the fruit of nonreturning.”
“But, friend Sāriputta, what are the things that a bhikkhu who is a nonreturner should carefully attend to?”
“Friend Koṭṭhita, a bhikkhu who is a nonreturner should carefully attend to these five aggregates subject to clinging as impermanent … as nonself. When, friend, a bhikkhu who is a nonreturner carefully attends thus to these five aggregates subject to clinging, it is possible that he may realize the fruit of arahantship.”
“But, friend Sāriputta, what are the things that a bhikkhu who is an arahant should carefully attend to?”
“Friend Koṭṭhita, a bhikkhu who is an arahant should carefully attend to these five aggregates subject to clinging as impermanent, as suffering, as a disease, as a tumour, as a dart, as misery, as an affliction, as alien, as disintegrating, as empty, as nonself. For the arahant, friend, there is nothing further that has to be done and no repetition of what he has already done.226 [169] However, when these things are developed and cultivated, they lead to a pleasant dwelling in this very life and to mindfulness and clear comprehension.”
103 (11) Instructed
(This sutta is identical with the preceding one except that the opening question and reply are phrased in terms of “an instructed bhikkhu.”)
124 (12) Kappa (1)
At Sāvatthī. Then the Venerable Kappa approached the Blessed One, paid homage to him, sat down to one side, and said to him:
“Venerable sir, how should one know, how should one see so that, in regard to this body with consciousness and in regard to all external signs, I- making, mine-making, and the underlying tendency to conceit no longer occur within?”
(Remainder identical with §71, but addressed to Kappa.) [170]
125 (13) Kappa (2)
At Sāvatthī. Then the Venerable Kappa approached the Blessed One … and said to him:
“Venerable sir, how should one know, how should one see so that, in regard to this body with consciousness and in regard to all external signs, the mind is rid of I-making, mine-making, and conceit, has transcended discrimination, and is peaceful and well liberated?”
(Remainder identical with §72, but addressed to Kappa.)
1



Close
Close