Quay lại bản Việt dịch

Font chữ:
Font chữ:

Chương Một - Tương Ưng Uẩn (2)

Dịch giả: Thích Minh Châu

II. Phẩm Vô Thường
I. Vô Thường (Tạp 1.1 Vô thường, Ðại 2,1a) (S.iii,21)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Sàvathi...
2) Tại đấy...
3-6) -- Này các Tỷ-kheo, sắc là vô thường..., thọ là vô thường..., tưởng là vô thường... các hành là vô thường..., thức là vô thường.
7) Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử yếm ly đối với sắc, yếm ly đối với thọ, yếm ly đối với tưởng, yếm ly đối với các hành, yếm ly đối với thức... Do yếm ly, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên: "Ta đã được giải thoát". Vị ấy biết : "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".
II. Khổ (S.iii,21)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3-7) -- Này các Tỷ-kheo, sắc là khổ..., thọ là khổ..., tưởng là khổ..., các hành là khổ..., thức là khổ...
8) Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử... "... không còn trở lui trạng thái này nữa".
III. Vô Ngã (S.iii,21)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3-7) -- Này các Tỷ-kheo, sắc là vô ngã..., thọ là vô ngã..., tưởng là vô ngã..., các hành là vô ngã..., thức là vô ngã...
8) Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử yếm ly đối với sắc, yếm ly đối với thọ, yếm ly đối với tưởng, yếm ly đối với các hành, yếm ly đối với thức. Do yếm ly, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên: "Ta được giải thoát". Vị ấy biết: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".
IV. Cái Gì Vô Thường (Tạp 1.9, Vô Thường, Ðại 2,2a) (S.iii,22)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3)-- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô thường; cái gì vô thường là khổ; cái gì khổ là vô ngã; cái gì vô ngã, cần phải như thật quán với chánh trí tuệ: "Cái này không phải của tôi; cái này không phải là tôi; cái này không phải tự ngã của tôi".
4) Thọ, này các Tỷ-kheo, là vô thường; cái gì vô thường là khổ; cái gì khổ là vô ngã; cái gì vô ngã cần phải như thật quán với chánh trí tuệ: "Cái này không phải của tôi; cái này không phải là tôi; cái này không phải tự ngã của tôi".
5) Tưởng, này các Tỷ-kheo, là vô thường...
6) Các hành, này các Tỷ-kheo, là vô thường...
7) Thức, này các Tỷ-kheo, là vô thường; cái gì vô thường là khổ; cái gì khổ là vô ngã; cái gì vô ngã cần phải như thật quán với chánh trí tuệ: "Cái này không phải của tôi; cái này không phải là tôi; cái này không phải tự ngã của tôi".
8) Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử yếm ly đối với sắc... "... không còn trở lui trạng thái này nữa".
V. Cái Gì Khổ (Tạp 1.10 Vô Thường. Ðại 2,2a) (S.iii,22)
1-2) Nhân duyên tại Sàvatthi...
3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là khổ. Cái gì khổ là vô ngã; cái gì vô ngã cần phải như thật quán với chánh trí tuệ: "Cái này không phải của tôi; cái này không phải là tôi; cái này không phải tự ngã của tôi".
4) Thọ, này các Tỷ-kheo, là khổ...
5) Tưởng, này các Tỷ-kheo, là khổ...
6) Các hành, này các Tỷ-kheo, là khổ...
7) Thức, này các Tỷ-kheo, là khổ. Cái gì khổ là vô ngã; cái gì vô ngã cần phải như thật quán với chánh trí tuệ: "Cái này không phải của tôi; cái này không phải là tôi; cái này không phải tự ngã của tôi".
8) Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử yếm ly đối với sắc... "...không còn trở lui trạng thái này nữa".
VI. Cái Gì Vô Ngã (S.iii,22)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Cái gì vô ngã; cần phải như thật quán với chánh trí tuệ: "Cái này không phải của tôi; cái này không phải là tôi; cái này không phải tự ngã của tôi".
4-6) Thọ, này các Tỷ-kheo, là vô ngã... Tưởng, này các Tỷ-kheo, là vô ngã... Các hành, này các Tỷ-kheo, là vô ngã...
7) Thức, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Cái gì vô ngã cần phải như thật quán với chánh trí tuệ: "Cái này không phải của tôi; cái này không phải là tôi; cái này không phải tự ngã của tôi".
8) Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử yếm ly đối với sắc... "... không còn trở lui trạng thái này nữa".
VII. Có Nhân Là Vô Thường (Tạp 1.11 Nhân. Ðại 2,2a) (S.iii,23)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô thường. Cái gì là nhân, cái gì là duyên cho sắc sanh khởi; cái ấy cũng vô thường. Sắc đã được cái vô thường làm cho sanh khởi, này các Tỷ-kheo, từ đâu có thể thường được?
4) Thọ, này các Tỷ-kheo, là vô thường. Cái gì là nhân, cái gì là duyên cho thọ sanh khởi; cái ấy cũng vô thường. Thọ đã được cái vô thường làm cho sanh khởi, này các Tỷ-kheo, từ đâu có thể thường được?
5) Tưởng, này các Tỷ-kheo, là vô thường...
6) Các hành, này các Tỷ-kheo, là vô thường...
7) Thức, này các Tỷ-kheo, là vô thường. Cái gì là nhân, cái gì là duyên cho thức sanh khởi; cái ấy cũng vô thường. Thức đã được cái vô thường làm cho sanh khởi, này các Tỷ-kheo, từ đâu có thể thường được?
8) Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử yếm ly đối với sắc... "... không còn trở lui với trạng thái này nữa".
VIII. Có Nhân Là Khổ (Tạp 1.12 Nhân. Ðại 2,2b) (S.iii,23)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là khổ. Cái gì là nhân, cái gì là duyên cho sắc sanh khởi; cái ấy cũng khổ. Sắc đã được cái khổ làm cho sanh khởi, này các Tỷ-kheo, từ đâu có thể lạc được?
4) Thọ, này các Tỷ-kheo, là khổ...
5) Tưởng, này các Tỷ-kheo, là khổ...
6) Các hành, này các Tỷ-kheo, là khổ...
7) Thức, này các Tỷ-kheo, là khổ. Cái gì là nhân, cái gì là duyên cho thức sanh khởi; cái ấy cũng khổ. Thức đã được cái khổ làm cho sanh khởi, này các Tỷ-kheo, từ đâu có thể lạc được?
8) Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử yếm ly đối với sắc... "... không còn trở lui trạng thái này nữa".
IX. Có Nhân Là Vô Ngã (S.iii,23)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Cái gì là nhân, cái gì là duyên cho sắc sanh khởi; cái ấy cũng vô ngã. Sắc đã được cái vô ngã làm cho sanh khởi, này các Tỷ-kheo, từ đâu là ngã được?
4-6) Thọ... Tưởng... Các hành, này các Tỷ-kheo, là vô ngã...
7) Thức, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Cái gì là nhân, cái gì là duyên cho thức sanh khởi; cái ấy cũng vô ngã. Thức đã được cái vô ngã làm cho sanh khởi, này các Tỷ-kheo, từ đâu là ngã được?
8) Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử yếm ly đối với sắc... "... không còn trở lui trạng thái này nữa".
X. Ananda (S.iii,24)
1) Ở tại Sàvatthi... trong vườn...
2) Lúc bấy giờ Tôn giả Ananda đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
3) Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
-- "Ðoạn diệt, đoạn diệt", bạch Thế Tôn, chúng con được nghe nói đến. Do đoạn diệt những pháp nào, bạch Thế Tôn, được gọi là đoạn diệt?
4) -- Sắc, này Ananda, là vô thường, hữu vi, do nhân duyên sanh khởi, chịu sự đoạn tận, chịu sự hoại diệt, chịu sự ly tham, chịu sự đoạn diệt. Sự đoạn diệt của sắc được gọi là đoạn diệt.
5) Thọ, này Ananda, là vô thường, hữu vi, do nhân duyên sanh khởi, chịu sự đoạn tận, chịu sự hoại diệt, chịu sự ly tham, chịu sự đoạn diệt. Sự đoạn diệt của thọ được gọi là đoạn diệt.
6-7) Tưởng, này Ananda, là vô thường... Các hành, này Ananda, là vô thường...
8) Thức, này Ananda, là vô thường, hữu vi, do nhân duyên sanh khởi, chịu sự đoạn tận, chịu sự hoại diệt, chịu sự ly tham, chịu sự đoạn diệt. Sự đoạn diệt của thức được gọi là đoạn diệt.
9) Sự đoạn diệt của những pháp này, này Ananda, được gọi là đoạn diệt.
III. Phẩm Gánh Nặng
I. Gánh Nặng (Tạp, 2.3, Trọng Ðởm. Ðại 2,19a) (Tăng 25.4, Ðại 2,631c) (S.iii,25)
1-2) Ở Sàvatthi...
3) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Ông về gánh nặng, mang gánh nặng lên, đặt gánh nặng xuống. Hãy nghe và khéo suy nghiệm, Ta sẽ giảng.
4) Này các Tỷ-kheo, thế nào là gánh nặng? Năm thủ uẩn là câu trả lời. Thế nào là năm? Sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là gánh nặng.
5) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là kẻ mang gánh nặng? Người là câu trả lời. Vị Tôn giả này có tên như thế này, dòng họ như thế này. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là kẻ mang gánh nặng!
6) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là mang gánh nặng lên? Chính là tham ái này đưa đến tái sanh, câu hữu với hỷ và tham, đi tìm hỷ lạc chỗ này, chỗ kia. Tức là dục ái, hữu ái, phi hữu ái. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là mang gánh nặng lên.
7) Này các Tỷ-kheo, thế nào là đặt gánh nặng xuống? Ðây là sự ly tham, đoạn diệt ái ấy một cách hoàn toàn, sự từ bỏ, sự xả ly, sự giải thoát, sự không chấp thủ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là đặt gánh nặng xuống.
8) Thế Tôn thuyết như vậy, Thiện Thệ nói như vậy xong, bậc Ðạo Sư lại nói thêm:
Năm uẩn là gánh nặng,
Kẻ gánh nặng là người;
Mang lấy gánh nặng lên,
Chính là khổ ở đời.
Còn đặt gánh nặng xuống,
Tức là lạc, không khổ,
Ðặt gánh nặng xuống xong,
Không mang thêm gánh khác.
Nếu nhổ khát ái lên,
Tận cùng đến gốc rễ,
Không còn đói và khát,
Ðược giải thoát tịnh lạc!
II. Liễu Tri (Parinna) (Tạp 3.22 Trì Pháp. Ðại 2,19a)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Và này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết những pháp cần phải liễu tri, phải được liễu tri. Hãy nghe và khéo suy nghiệm, Ta sẽ nói...
4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các pháp cần phải liễu tri? Sắc, này các Tỷ-kheo, là pháp cần phải liễu tri, thọ là pháp cần phải liễu tri, tưởng là pháp cần phải liễu tri, các hành là pháp cần phải liễu tri, thức là pháp cần phải liễu tri. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là những pháp cần phải liễu tri.
5) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là liễu tri? Này các Tỷ-kheo, sự đoạn tận tham, sự đoạn tận sân, sự đoạn tận si, này các Tỷ-kheo, được gọi là liễu tri.
III. Thắng Tri (Tạp 1.3, Vô Tri. Ðại 2,1a) (S.iii,27)
1-2) Nhân duyên tại Sàvatthi...
3) -- Này các Tỷ-kheo, do không thắng tri sắc, không liễu tri, không ly tham, không từ bỏ, nên không có thể đoạn tận khổ.
4) Này các Tỷ-kheo, do không thắng tri thọ...
5-6) Này các Tỷ-kheo, do không thắng tri tưởng... không thắng tri các hành...
7) Này các Tỷ-kheo, do không thắng tri thức, không liễu tri, không ly tham, không từ bỏ, nên không có thể đoạn tận khổ.
8) Này các Tỷ-kheo, do thắng tri sắc, liễu tri, ly tham, từ bỏ, nên có thể đoạn tận khổ.
9-11) Này các Tỷ-kheo, do thắng tri thọ... thắng tri tưởng... thắng tri các hành...
12) Này các Tỷ-kheo, do thắng tri thức, liễu tri, ly tham, từ bỏ, nên có thể đoạn tận khổ.
IV. Dục Tham (Tạp 3.27 Tham, Ðại 2,19c) (S.iii,27)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Dục và tham (chandaràga) đối với sắc, này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ nó. Như vậy, sắc ấy sẽ được đoạn trừ, nhổ tận gốc rễ, làm cho như thân cây ta-la, làm cho không thể tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai.
4) Dục và tham đối với thọ, này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ nó. Như vậy, thọ ấy sẽ được đoạn trừ, nhổ tận gốc rễ, làm cho như thân cây ta-la, làm cho không thể tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai.
5) Dục và tham đối với tưởng...
6) Dục và tham đối với các hành...
7) Dục và tham đối với thức, này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ nó. Như vậy, thức ấy sẽ được đoạn trừ, nhổ tận gốc rễ, làm cho như thân cây ta-la, làm cho không thể tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai.
V. Vị Ngọt (Tạp 1.14, Vị, Ðại 2,2c) (S.iii,27)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Này các Tỷ-kheo, trước khi Ta giác ngộ, chưa chứng Chánh Ðẳng Giác, còn là Bồ-tát, Ta suy nghĩ như sau:
4) "Cái gì là vị ngọt, cái gì là sự nguy hiểm, cái gì là sự xuất ly của sắc? Cái gì là vị ngọt, cái gì là sự nguy hiểm, cái gì là sự xuất ly của thọ? Cái gì là vị ngọt, cái gì là sự nguy hiểm, cái gì là sự xuất ly của tưởng? Cái gì là vị ngọt, cái gì là sự nguy hiểm, cái gì là sự xuất ly của các hành? Cái gì là vị ngọt, cái gì là sự nguy hiểm, cái gì là sự xuất ly của thức?"
5) Rồi này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ như sau:
6) "Do duyên sắc, lạc hỷ sanh; cái ấy gọi là vị ngọt của sắc. Sự vô thường, đau khổ, chịu sự biến hoại của sắc; cái ấy gọi là sự nguy hiểm của sắc. Sự nhiếp phục dục và tham đối với sắc, sự đoạn tận dục và tham; cái ấy là xuất ly của sắc".
7) "Do duyên thọ, lạc hỷ sanh.."..
8) "Do duyên tưởng, lạc hỷ sanh..".
9) "Do duyên các hành, lạc hỷ sanh; cái ấy gọi là vị ngọt của các hành. Sự vô thường, đau khổ, chịu sự biến hoại của các hành; cái ấy gọi là sự nguy hiểm của các hành. Sự nhiếp phục dục và tham đối với hành, sự đoạn tận dục và tham; cái ấy là sự xuất ly của các hành".
10) "Do duyên thức, lạc hỷ sanh; cái ấy gọi là vị ngọt của thức. Sự vô thường, đau khổ, chịu sự biến hoại của thức; cái ấy gọi là sự nguy hiểm của thức. Sự nhiếp phục dục và tham đối với thức, sự đoạn tận dục và tham; cái ấy là sự xuấy ly của thức".
11) Này các Tỷ-kheo, cho đến khi nào đối với năm thủ uẩn này, Ta chưa như thật thắng tri vị ngọt là vị ngọt, nguy hiểm là nguy hiểm, xuất ly là xuất ly, thời này các Tỷ-kheo, Ta không tuyên bố rằng Ta đã giác ngộ vô thượng Chánh Ðẳng Giác đối với thế giới gồm có Thiên, Ma, Phạm thiên, đối với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người.
12) Nhưng này các Tỷ-kheo, khi nào đối với năm thủ uẩn này, Ta như thật thắng tri vị ngọt là vị ngọt, nguy hiểm là nguy hiểm, xuất ly là xuất ly, thời này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng Ta đã giác ngộ vô thượng Chánh Ðẳng Giác đối với thế giới gồm có Thiên, Ma, Phạm thiên, đối với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người.
13) Và tri kiến như sau khởi lên nơi Ta:
"Tâm Ta giải thoát, bất động. Ðây là đời sống cuối cùng, nay không còn tái sanh nữa".
VI. Vị Ngọt (S.iii,29)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Này các Tỷ-kheo, Ta đã đi tìm cầu vị ngọt của sắc. Vị ngọt của sắc là gì, Ta đã chứng đắc. Vị ngọt của sắc như thế nào, Ta đã khéo thấy với trí tuệ.
4) Này các Tỷ-kheo, Ta đã đi tìm cầu sự nguy hiểm của sắc. Sự nguy hiểm của sắc là gì, Ta đã chứng đắc. Sự nguy hiểm của sắc như thế nào, Ta đã khéo thấy với trí tuệ.
5) Này các Tỷ-kheo, Ta đã đi tìm cầu sự xuất ly của sắc. Sự xuất ly của sắc là gì, Ta đã chứng đắc. Sự xuất ly của sắc như thế nào, Ta đã khéo thấy với trí tuệ.
6-8) Này các Tỷ-kheo, Ta đi tìm cầu vị ngọt của thọ...
9-11) Này các Tỷ-kheo, Ta đã đi tìm cầu vị ngọt của tưởng...
12-14) Này các Tỷ-kheo, Ta đã đi tìm cầu vị ngọt của các hành...
15) Này các Tỷ-kheo, Ta đã đi tìm cầu vị ngọt của thức. Vị ngọt của thức là gì, Ta đã chứng đắc. Vị ngọt của thức như thế nào, Ta đã khéo thấy với trí tuệ.
16) Này các Tỷ-kheo, Ta đã đi tìm cầu sự nguy hiểm của thức. Nguy hiểm của thức là gì, Ta đã chứng đắc. Nguy hiểm của thức như thế nào, Ta đã khéo thấy với trí tuệ.
17) Này các Tỷ-kheo, Ta đã đi tìm cầu sự xuất ly của thức. Xuất ly của thức là gì, Ta đã chứng đắc. Xuất ly của thức như thế nào, Ta đã khéo thấy với trí tuệ.
18-19) Này các Tỷ-kheo, cho đến khi nào đối với năm thủ uẩn này, Ta chưa như thật biết vị ngọt là vị ngọt, nguy hiểm là sự nguy hiểm, xuất ly là xuất ly, thời này các Tỷ-kheo, Ta không tuyên bố rằng... Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người.
20) Và tri kiến như sau khởi lên nơi Ta: "Tâm Ta giải thoát, bất động. Ðây là đời sống cuối cùng, nay không còn tái sanh nữa".
VII. Vị Ngọt (Tạp 1.13 Vị, Ðại 2,2bb) (S.iii,29)
1-2) Nhân duyên tại Sàvatthi...
3) -- Này các Tỷ-kheo, nếu không có vị ngọt của sắc, thời các loài hữu tình không có tham đắm đối với sắc. Và vì rằng, này các Tỷ-kheo, có vị ngọt của sắc cho nên các loài hữu tình có tham đắm đối với sắc.
4) -- Này Tỷ-kheo, nếu không có sự nguy hiểm của sắc, thời các loài hữu tình không có yếm ly đối với sắc. Và vì rằng, này các Tỷ-kheo, có sự nguy hiểm của sắc cho nên các loài hữu tình có yếm ly đối với sắc.
5) Này các Tỷ-kheo, nếu không có sự xuất ly đối với sắc, thời các loài hữu tình không có xuất ly đối với sắc. Và vì rằng, này các Tỷ-kheo, có sự xuất ly của sắc cho nên các loài hữu tình có sự xuất ly đối với sắc.
6-8) Này các Tỷ-kheo, nếu không có vị ngọt của thọ...
9-11) Này các Tỷ-kheo, nếu không có vị ngọt của tưởng...
12-14) Này các Tỷ-kheo, nếu không có vị ngọt của các hành...
15) Này các Tỷ-kheo, nếu không có vị ngọt của thức, thời các loài hữu tình không có tham đắm đối với thức. Và vì rằng, này các Tỷ-kheo, có vị ngọt của thức cho nên các loài hữu tình có tham đắm đối với thức.
16) Này các Tỷ-kheo, nếu không có sự nguy hiểm của thức, thời các loài hữu tình không có xuất ly đối với thức. Và vì rằng, này các Tỷ-kheo, có sự nguy hiểm đối với thức cho nên các loài hữu tình có yếm ly đối với thức.
17) Này các Tỷ-kheo, nếu không có sự xuất ly đối với thức, thời các loài hữu tình không có xuất ly đối với thức. Và vì rằng, này các Tỷ-kheo, có sự xuất ly đối với thức cho nên các loài hữu tình có xuất ly đối với thức.
18) Này các Tỷ-kheo, khi nào các loài hữu tình đối với năm thủ uẩn này không như thật thắng tri vị ngọt là vị ngọt, nguy hiểm là nguy hiểm, xuất ly là xuất ly, thời các loài hữu tình ấy, này các Tỷ-kheo, với thế giới chư Thiên, Ma, Phạm thiên, với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người, không thể sống xuất ly, thoát sự liên hệ, giải thoát, với tâm tự tại.
19) Và này các Tỷ-kheo, khi nào các loài hữu tình đối với năm thủ uẩn này, như thật thắng tri vị ngọt là vị ngọt, nguy hiểm là nguy hiểm, xuất ly là xuất ly, thời các loài hữu tình ấy, này các Tỷ-kheo, với thế giới chư Thiên, Ma, Phạm thiên, với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người, có thể sống xuất ly, thoát sự liên hệ, giải thoát, với tâm tự tại.
VIII. Hoan Hỷ (Tạp 1.7, Ư Sắc Hỷ Lạc, Ðại 2,1c)(Tạp 1.5, Ðại 2,1b) (S.iii,31)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Này các Tỷ-kheo, ai hoan hỷ sắc, người ấy hoan hỷ khổ. Ai hoan hỷ khổ, Ta nói, người ấy không giải thoát khỏi khổ.
4) Này các Tỷ-kheo, ai hoan hỷ thọ...
5) Này các Tỷ-kheo, ai hoan hỷ tưởng...
6) Này các Tỷ-kheo, ai hoan hỷ các hành...
7) Này các Tỷ-kheo, ai hoan hỷ thức, người ấy hoan hỷ khổ. Ai hoan hỷ khổ, Ta nói, người ấy không giải thoát khỏi khổ.
8) Và này các Tỷ-kheo, ai không hoan hỷ sắc, người ấy không hoan hỷ khổ. Ai không hoan hỷ khổ, Ta nói, người ấy giải thoát khỏi khổ.
9) Và này các Tỷ-kheo, ai không hoan hỷ thọ...
10) Và này các Tỷ-kheo, ai không hoan hỷ tưởng...
11) Và này các Tỷ-kheo, ai không hoan hỷ các hành...
12) Và này các Tỷ-kheo, ai không hoan hỷ thức, người ấy không hoan hỷ khổ. Ai không hoan hỷ khổ, Ta nói, người ấy giải thoát khỏi khổ.
IX. Sanh Khởi (Tạp 3.28 Sanh, Ðại 2,20a) (S.iii,31)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Này các Tỷ-kheo, cái gọi là sắc sanh, trú, khởi, hiện hữu; cái ấy là khổ sanh, bệnh tật trú, già chết hiện hữu.
4-6) Này các Tỷ-kheo, cái gọi là thọ sanh, trú, khởi, hiện hữu... tưởng sanh, trú, khởi, hiện hữu... các hành sanh, trú, khởi, hiện, hữu...
7) Này các Tỷ-kheo, cái gọi là thức sanh, trú, khởi, hiện hữu; cái ấy gọi là khổ sanh, bệnh tật trú, già chết hiện hữu.
8) Này các Tỷ-kheo, cái gọi là sắc đoạn diệt, an chỉ, biến mất; cái ấy gọi là khổ đoạn diệt, bệnh tật an chỉ, già chết biến mất.
9-11) Này các Tỷ-kheo, cái gọi là thọ đoạn diệt... tưởng đoạn diệt... các hành đoạn diệt...
12) Này các Tỷ-kheo, cái gọi là thức đoạn diệt, an chỉ, biến mất; cái ấy là khổ đoạn diệt, bệnh tật an chỉ, già chết biến mất.
X. Cội Gốc Của Ðau Khổ (S.iii,32)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết về đau khổ và cội gốc của đau khổ. Hãy lắng nghe...
4) Này các Tỷ-kheo, thế nào là đau khổ? Sắc, này các Tỷ-kheo, là đau khổ; thọ là đau khổ; tưởng là đau khổ; các hành là đau khổ; thức là đau khổ. Ðây, này các Tỷ-kheo, gọi là đau khổ.
5) Này các Tỷ-kheo, thế nào là cội gốc của đau khổ? Chính là khát ái này hướng tới tái sanh, câu hữu với hỷ và tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ này, chỗ kia; tức là dục ái, hữu ái, phi hữu ái.
XI. Hoại Pháp (Tạp 2,19, Hoại Pháp, Ðại 2,12b) (S.iii,32)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Và này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết về hoại pháp và bất hoại pháp. Hãy lắng nghe...
4) Và này các Tỷ-kheo, cái gì là hoại pháp? Cái gì là bất hoại pháp?
5) Sắc, này các Tỷ-kheo, là hoại pháp. Sự đoạn diệt của sắc ấy, sự an chỉ, biến mất là bất hoại pháp.
6) Thọ, này các Tỷ-kheo, là hoại pháp...
7) Tưởng, này các Tỷ-kheo, là hoại pháp...
8) Hành, này các Tỷ-kheo, là hoại pháp...
9) Thức, này các Tỷ-kheo, là hoại pháp. Sự đoạn diệt của thức ấy, sự an chỉ, biến mất là bất hoại pháp.

II. IMPERMANENT

Translated by: Bhikkhu Boddhi

1 (1) Impermanent

Thus have I heard. At Sāvatthī…. There the Blessed One said this: “Bhikkhus, form is impermanent, feeling is impermanent, perception is
impermanent, volitional formations are impermanent, consciousness is impermanent. Seeing thus, bhikkhus, the instructed noble disciple experiences revulsion towards form, revulsion towards feeling, revulsion towards perception, revulsion towards volitional formations, revulsion towards consciousness. Experiencing revulsion, he becomes dispassionate. Through dispassion [his mind] is liberated. When it is liberated there comes the knowledge: ‘It’s liberated.’ He understands: ‘Destroyed is birth, the holy life has been lived, what had to be done has been done, there is no more for this state of being.’”
2 (2) Suffering
At Sāvatthī. “Bhikkhus, form is suffering, feeling is suffering, perception is suffering, volitional formations are suffering, consciousness is suffering. Seeing thus … He understands: ‘… there is no more for this state of being.’”
3 (3) Nonself
At Sāvatthī. “Bhikkhus, form is nonself, feeling is nonself, perception is nonself, volitional formations are nonself, consciousness is nonself. Seeing thus … He understands: ‘… there is no more for this state of being.’” [22]
4 (4) What is Impermanent
At Sāvatthī. “Bhikkhus, form is impermanent. What is impermanent is suffering. What is suffering is nonself. What is nonself should be seen as it really is with correct wisdom thus: ‘This is not mine, this I am not, this is not my self.’
“Feeling is impermanent…. Perception is impermanent…. Volitional formations are impermanent…. Consciousness is impermanent. What is impermanent is suffering. What is suffering is nonself. What is nonself should be seen as it really is with correct wisdom thus: ‘This is not mine, this I am not, this is not my self.’
“Seeing thus … He understands: ‘… there is no more for this state of being.’”
5 (5) What is Suffering
At Sāvatthī. “Bhikkhus, form is suffering. What is suffering is nonself. What is nonself should be seen as it really is with correct wisdom thus: ‘This is not mine, this I am not, this is not my self.’
“Feeling is suffering…. Perception is suffering…. Volitional formations are suffering…. Consciousness is suffering. What is suffering is nonself. What is nonself should be seen as it really is with correct wisdom thus: ‘This is not mine, this I am not, this is not my self.’
“Seeing thus … He understands: ‘… there is no more for this state of being.’”
6 (6) What is Nonself
At Sāvatthī. “Bhikkhus, form is nonself. What is nonself [23] should be seen as it really is with correct wisdom thus: ‘This is not mine, this I am not, this is not my self.’
“Feeling is nonself…. Perception is nonself…. Volitional formations are nonself…. Consciousness is nonself. What is nonself should be seen as it really is with correct wisdom thus: ‘This is not mine, this I am not, this is not my self.’
“Seeing thus … He understands: ‘… there is no more for this state of being.’”
7 (7) Impermanent with Cause
At Sāvatthī. “Bhikkhus, form is impermanent. The cause and condition for the arising of form is also impermanent. As form has originated from what is impermanent, how could it be permanent?
“Feeling is impermanent…. Perception is impermanent…. Volitional formations are impermanent…. Consciousness is impermanent. The cause and condition for the arising of consciousness is also impermanent. As consciousness has originated from what is impermanent, how could it be permanent?
“Seeing thus … He understands: ‘… there is no more for this state of being.’”
8 (8) Suffering with Cause
At Sāvatthī. “Bhikkhus, form is suffering. The cause and condition for the arising of form is also suffering. As form has originated from what is suffering, how could it be happiness?
“Feeling is suffering…. Perception is suffering…. Volitional formations are suffering…. [24] Consciousness is suffering. The cause and condition for the arising of consciousness is also suffering. As consciousness has originated from what is suffering, how could it be happiness?
“Seeing thus … He understands: ‘… there is no more for this state of being.’”
9 (9) Nonself with Cause
At Sāvatthī. “Bhikkhus, form is nonself. The cause and condition for the arising of form is also nonself. As form has originated from what is nonself, how could it be self?
“Feeling is nonself…. Perception is nonself…. Volitional formations are nonself…. Consciousness is nonself. The cause and condition for the arising of consciousness is also nonself. As consciousness has originated from what is nonself, how could it be self?
“Seeing thus … He understands: ‘… there is no more for this state of being.’”
10 (10) Ananda
At Sāvatthī. Then the Venerable Ānanda approached the Blessed One, paid homage to him, sat down to one side, and said to him:
“Venerable sir, it is said, ‘cessation, cessation.’ Through the cessation of what things is cessation spoken of?”
“Form, Ānanda, is impermanent, conditioned, dependently arisen, subject to destruction, to vanishing, to fading away, to cessation. Through its cessation, cessation is spoken of.
“Feeling is impermanent … Perception is impermanent … Volitional formations are impermanent … [25] … Consciousness is impermanent, conditioned, dependently arisen, subject to destruction, to vanishing, to fading away, to cessation. Through its cessation, cessation is spoken of.
“It is through the cessation of these things, Ānanda, that cessation is spoken of.”
III. THE BURDEN
11 (1) The Burden
At Sāvatthī…. There the Blessed One said this:
“Bhikkhus, I will teach you the burden, the carrier of the burden, 35 the taking up of the burden, and the laying down of the burden. Listen to that….
“And what, bhikkhus, is the burden? It should be said: the five aggregates subject to clinging. What five? The form aggregate subject to clinging, the feeling aggregate subject to clinging, the perception aggregate subject to clinging, the volitional formations aggregate subject to clinging, the consciousness aggregate subject to clinging. This is called the burden.36
“And what, bhikkhus, is the carrier of the burden? It should be said: the person, this venerable one of such a name and clan. This is called the carrier of the burden.37 [26]
“And what, bhikkhus, is the taking up of the burden? It is this craving that leads to renewed existence, accompanied by delight and lust, seeking delight here and there; that is, craving for sensual pleasures, craving for existence, craving for extermination. This is called the taking up of the burden.38
“And what, bhikkhus, is the laying down of the burden? It is the remainderless fading away and cessation of that same craving, the giving up and relinquishing of it, freedom from it, non-reliance on it. This is called the laying down of the burden.”39
This is what the Blessed One said. Having said this, the Fortunate One, the Teacher, further said this:
“The five aggregates are truly burdens, The burden-carrier is the person.
Taking up the burden is suffering in the world, Laying the burden down is blissful.
Having laid the heavy burden down Without taking up another burden, Having drawn out craving with its root,
One is free from hunger, fully quenched.”40
12 (2) Full Understanding
At Sāvatthī. [27] “Bhikkhus, I will teach you things that should be fully understood and also full understanding. Listen to that….
“And what, bhikkhus, are the things that should be fully understood? Form, bhikkhus, is something that should be fully understood; feeling … perception … volitional formations … consciousness is something that should be fully understood. These are called the things that should be fully understood.
“And what, bhikkhus, is full understanding? The destruction of lust, the destruction of hatred, the destruction of delusion. This is called full understanding.”41
13 (3) Directly Knowing
At Sāvatthī. “Bhikkhus, without directly knowing and fully understanding form, without becoming dispassionate towards it and abandoning it, one is incapable of destroying suffering. Without directly knowing and fully understanding feeling … perception … volitional formations … consciousness, without becoming dispassionate towards it and abandoning it, one is incapable of destroying suffering.
“Bhikkhus, by directly knowing and fully understanding form, by becoming dispassionate towards it and abandoning it, one is capable of destroying suffering. By directly knowing and fully understanding feeling
… perception … volitional formations … consciousness, by becoming dispassionate towards it and abandoning it, one is capable of destroying suffering.”42
14 (4) Desire and Lust
At Sāvatthī. “Bhikkhus, abandon desire and lust for form. Thus that form will be abandoned, cut off at the root, made like a palm stump, obliterated so that it is no more subject to future arising.
“Abandon desire and lust for feeling … for perception … for volitional formations … for consciousness. Thus that consciousness will be abandoned, cut off at the root, made like a palm stump, obliterated so that it is no more subject to future arising.”
15 (5) Gratification (1)
At Sāvatthī. “Bhikkhus, before my enlightenment, while I was still a bodhisatta, not yet fully enlightened, it occurred to me: ‘What is the gratification, what is the danger, what is the escape in the case of form? What is the gratification, what is the danger, what is the escape in the case of feeling … perception … volitional formations … consciousness?’43 [28]
“Then, bhikkhus, it occurred to me: ‘The pleasure and joy that arise in dependence on form: this is the gratification in form. That form is impermanent, suffering, and subject to change: this is the danger in form. The removal and abandonment of desire and lust for form: this is the escape from form.
“‘The pleasure and joy that arise in dependence on feeling … in dependence on perception … in dependence on volitional formations … in dependence on consciousness: this is the gratification in consciousness. That consciousness is impermanent, suffering, and subject to change: this is the danger in consciousness. The removal and abandonment of desire and lust for consciousness: this is the escape from consciousness.’
“So long, bhikkhus, as I did not directly know as they really are the gratification, the danger, and the escape in the case of these five aggregates subject to clinging, I did not claim to have awakened to the unsurpassed perfect enlightenment in this world with its devas, Māra, and Brahmā, in this generation with its ascetics and brahmins, its devas and humans. But
when I directly knew all this as it really is, then I claimed to have awakened to the unsurpassed perfect enlightenment in this world with … its devas and humans.
“The knowledge and vision arose in me: ‘Unshakable is my liberation of mind; this is my last birth; now there is no more renewed existence.’” [29]
16 (6) Gratification (2)
At Sāvatthī. “Bhikkhus, I set out seeking the gratification in form. Whatever gratification there is in form—that I discovered. I have clearly seen with wisdom just how far the gratification in form extends.
“Bhikkhus, I set out seeking the danger in form. Whatever danger there is in form—that I discovered. I have clearly seen with wisdom just how far the danger in form extends.
“Bhikkhus, I set out seeking the escape from form. Whatever escape there is from form—that I discovered. I have clearly seen with wisdom just how far the escape from form extends.
“Bhikkhus, I set out seeking the gratification in … the danger in … the escape from feeling … from perception … from volitional formations … from consciousness. Whatever escape there is from consciousness—that I discovered. I have clearly seen with wisdom just how far the escape from consciousness extends.
“So long, bhikkhus, as I did not directly know as they really are the gratification, the danger, and the escape in the case of these five aggregates subject to clinging, I did not claim to have awakened to the unsurpassed perfect enlightenment in this world with its devas, Māra, and Brahmā, in this generation with its ascetics and brahmins, its devas and humans. But when I directly knew all this as it really is, then I claimed to have awakened to the unsurpassed perfect enlightenment in this world with … its devas and humans.
“The knowledge and vision arose in me: ‘Unshakable is my liberation of mind; this is my last birth; now there is no more renewed existence.’”
17 (7) Gratification (3)
At Sāvatthī. “Bhikkhus, if there were no gratification in form, [30] beings would not become enamoured with it; but because there is gratification in form, beings become enamoured with it. If there were no danger in form, beings would not experience revulsion towards it; but because there is danger in form, beings experience revulsion towards it. If there were no escape from form, beings would not escape from it; but because there is an escape from form, beings escape from it.
“Bhikkhus, if there were no gratification in feeling … in perception … in volitional formations … in consciousness, beings would not become enamoured with it … but because there is an escape from consciousness, beings escape from it.
“So long, bhikkhus, as beings have not directly known as they really are the gratification as gratification, the danger as danger, and the escape as escape in the case of these five aggregates subject to clinging, they have not escaped from this world with its devas, Māra, [31] and Brahmā, from this generation with its ascetics and brahmins, its devas and humans; they have not become detached from it, released from it, nor do they dwell with a mind rid of barriers. But when beings have directly known all this as it really is, then they have escaped from this world with … its devas and humans; they have become detached from it, released from it, and they dwell with a mind rid of barriers.”
18 (8) Delight
At Sāvatthī. “Bhikkhus, one who seeks delight in form seeks delight in suffering. One who seeks delight in suffering, I say, is not freed from suffering. One who seeks delight in feeling … in perception … in volitional formations … in consciousness seeks delight in suffering. One who seeks delight in suffering, I say, is not freed from suffering.
“One who does not seek delight in form … in consciousness does not seek delight in suffering. One who does not seek delight in suffering, I say,
is freed from suffering.”
19 (9) Arising
At Sāvatthī. “Bhikkhus, the arising, continuation, production, [32] and manifestation of form is the arising of suffering, the continuation of disease, the manifestation of aging-and-death. The arising of feeling … of perception … of volitional formations … of consciousness is the arising of suffering, the continuation of disease, the manifestation of aging-and-death.
“The cessation, subsiding, and passing away of form … of consciousness is the cessation of suffering, the subsiding of disease, the passing away of aging-and-death.”
20 (10) The Root of Misery
At Sāvatthī. “Bhikkhus, I will teach you misery44 and the root of misery. Listen to that….
“And what, bhikkhus, is misery? Form is misery; feeling is misery; perception is misery; volitional formations are misery; consciousness is misery. This is called misery.
“And what, bhikkhus, is the root of misery? It is this craving that leads to renewed existence, accompanied by delight and lust, seeking delight here and there; that is, craving for sensual pleasures, craving for existence, craving for extermination. This is called the root of misery.”
21 (11) The Fragile
At Sāvatthī. “Bhikkhus, I will teach you the fragile45 and the unfragile. Listen to that….
“And what, bhikkhus, is the fragile, and what the unfragile? [33] Form is the fragile; its cessation, subsiding, passing away is the unfragile. Feeling is the fragile … Perception is the fragile …
Volitional formations are the fragile … Consciousness is the fragile; its cessation, subsiding, passing away is the unfragile.”
1



Close
Close