(Abhidhammatthasangaha) Dịch giả: Tâm An - Minh Tuệ
Kính mong quý độc giả xem kinh cùng góp sức hoàn thiện bằng cách gửi email về admin@rongmotamhon.net để báo cho chúng tôi biết những chỗ còn có lỗi.
Font chữ:
1. VẤN ÐỀ GIẢI THOÁT
(Vimuttakathā)
Ðiểm tranh luận: Tuệ giải thoát tự nó là một phẩm chất của sự giải thoát.
Theo chú giải: Có 4 Tuệ được phân loại: Tuệ trực giác, tuệ đạo, tuệ quả và tuệ phản khán. Nói cách khác, các Tuệ này được xem như là: a). Tuệ trực giác là tuệ giải thoát những sai lầm như nhận thức các pháp là thường hằng không bị hủy diệt; b) Tuệ đạo là tuệ cắt đứt đoạn tận các phiền não; c) Tuệ hưởng quả (phalampatipassadhi - vimutti); d) Tuệ phản khán là tuệ quán chiếu về sự giải thoát. Chỉ có tuệ thứ ba là trừu tượng, không có tính chất của sự giải thoát. Các Tuệ còn lại không thể được gọi là Pháp giải thoát, Phái Andhakas đã quan niệm sai lầm như vậy về bốn Tuệ trên (1)
(1) Theravadins: - Có phải quan niệm của Ngài không bao hàm rằng bất cứ Tuệ giải thoát nào cũng có phẩm chất của sự giải thoát? Chẳng hạn Tuệ phản kháng có phẩm chất của sự giải thoát không? Một tuệ giải thoát như vậy của một bậc chuyển biến có phải là phẩm chất của sự giải thoát không? Ngài từ chối cả hai điều này. Như vậy quan điểm của Ngài chỉ áp dụng một cách chung chung.
(2) Lại nữa, quan niệm ấy bao gồm tuệ giải thoát của một bậc đang tu tập để chứng ngộ Quả của các Ðạo Dự lưu, Nhất lai, Bất lai, và A-la-hán, cũng là sự giải thoát. Nhưng có phải Ngài cho rằng Tuệ của một bậc chứng đạo Dự lưu cũng tương đương với một bậc đã chứng ngộ, đã chứng đắc, đạt đến, thấu rõ quả của Ðạo Dự lưu đó, và cũng như vậy đối với Nhất lai, Bất lai, A-la-hán? Dĩ nhiên là Ngài từ khước (vì Ðạo và Quả khác nhau).
(3) Ngược lại, có phải Ngài muốn nói thêm rằng nếu Tuệ giải thoát của một bậc đã chứng quả của Ðạo, với tuệ giải thoát của một bậc chỉ tu tập để chứng quả ấy đều có những tinh chất của sự giải thoát giống nhau? Dĩ nhiên Ngài từ khước.
(4) Hay nói cách khác, như quan niệm của Ngài, giả sử chúng ta cho rằng khi một bậc đã chứng quả trong bất cứ đạo nào trong bốn đạo. Tuệ giải thoát của bậc ấy, tự bản thân nó, có phẩm chất của sự giải thoát.
Giờ đây, Ngài chấp nhận rằng Tuệ mà chúng ta đang bàn đến là Tuệ của một bậc chứng Quả, phải chăng Ngài không đồng ý?
Ngưng có phải Ngài đã quan niệm như vậy, nếu bậc này chưa chứng quả mà chỉ đang tu tập để chứng đạt quả? Dĩ nhiên Ngài từ khước. 2. VẤN ÐỀ TUỆ CỦA BẬC VÔ HỌC
(Asekkananakathā)
Ðiểm tranh luận: Bậc hữu học có tuệ của bậc vô học.
Theo chú giải: Quan niệm này của phái Uttarāpathakas, cho rằng những bậc hữu học như Aønanda và những vị Ðệ tử khác có thể hiểu được lời thuyết giảng của Ðức Thế tôn ... nên họ biết được Tuệ của những bậc vô học.
(1) Theravadins: - Như vậy Ngài bao hàm rằng bậc hữu học hiểu rõ, thấy rõ các pháp của bậc vô học, sống trong sự chứng đạt, hiểu rõ, thấy rõ, nhận thức rõ các pháp ấy. Nếu không Ngài không thể duy trì quan niệm của Ngài được.
(2) Dĩ nhiên, chúng ta đều công nhận bậc vô học hiểu rõ, thấy rõ các pháp của bậc vô học, sống trong sự chứng đạt ... Nhưng Ngài đã thừa nhận, Ngài không thể cho rằng Tuệ này cũng có đối với bậc hữu học được.
Như vậy, quan điểm của Ngài cho rằng bậc hữu học có Tuệ của bậc vô học, nhưng Ngài lại từ khước bậc hữu học thấy được, biết được các pháp của bậc vô học. Nhưng bậc vô học cũng có Tuệ của bậc vô học, nếu bậc vô học có tuệ ngang bằng với bậc hữu học thì Ngài phải thêm rằng bậâc vô học cũng không biết rõ, không thấy rõ các pháp của bậc vô học, không sống trong sự chứng đạt của bậc vô học. Ðiều này thật vô lý và Ngài đã từ khước những điều mà Ngài đã thừa nhận.
(3) Ngài sẵn sàng từ khước một bậc ở đạo thấp có Tuệ của bậc ở đạo cao hơn, một bậc chuyển biến (gotrabhu) có Tuệ của bậc Ðạo Dự lưu. Như vậy làm thế nào Ngài có thể cho rằng Tuệ của bậc hữu học cũng là tuệ của bậc vô học.?
(4) U: - Nếu quan điểm của chúng tôi sai lầm, tại sao một bậc hữu học như tôn giả Ānanda có thể hiểu được lời của Ðức Thế tôn, hoặc tôn giả Sariputta, tôn giả Moggallāna? 3. VẤN ÐỀ ẢO GIÁC TRONG KHI NHẬP THIỀN
(Viparītakathā)
Ðiểm tranh luận: Bậc đắc thiền với đề mục Ðất ... (2) có sự hiểu biết huyền hoặc (tuệ không thật).
Theo chú giải: Quan niệm này của phái Andhakas, cho rằng một người đắc thiền với đề mục Ðất ... trong tiến trình quan sát về Ðất, biết rõ về Ðất và với tâm hoan hỉ với đề mục Ðất thì tâm đó vượt khỏi phạm vi hạn hẹp của Ðất (từ thô tướng trở thành quang tướng) dầu vẫn dán chặt với đề mục, tri giác của vị này trở thành ảo giác, thấy một vật ban đầu chỉ là đất, dần dần trở thành khái niệm. Phái Theravadins đã làm minh bạch ý nghĩa đặc biệt của Ðất. Cái nhìn "ảo tưởng" chỉ nhận được khi thấy các pháp thường hằng, bất biến trong sự vô thường. Thực ra không có ảo giác trong thiền vì khi một đề mục là khái niệm về đất hay sự nhận thức về tâm thì trong tâm thức của Hành giả chỉ tồn tại khái niệm này.
(1) Theravadins: - Nếu quan niệm của Ngài hữu lý, có phải Ngài bảo rằng sự "Huyền hoặc" cũng giống như thấy lầm lạc cái thường hằng trong cái vô thường, thấy hạnh phúc trong đau khổ, thấy tự ngã trong vô ngã, thấy điều đẹp trong điều xấu. Dĩ nhiên Ngài từ khước.
(2) Lại nữa, Ngài bao hàm trí tuệ của một bậc nhập thiền như vậy không phải là một năng lực. Nhưng ý kiến của Ngài về vấn đề này thì mâu thuẫn lại: đó là một năng lực.
(3) Ngài thừa nhận một sự phán đoán ngược lại, thấy cái thường hằng trong cái vô thường là một sự phán đoán sai lầm và những sự phán đoán khác như ở trên cũng sai lầm như vậy. Tuy Ngài không thừa nhận những tri kiến khi nhập thiền là những thành tựu của pháp bất thiện.
(4) Ngược lại, Ngài cho rằng sự nhập thiền là thành quả của pháp thiện. Tuy nhiên sự huyền hoặc tương tự như trường hợp của bốn phán đoán kể trên được Ngài cho là sai lầm.
(5) Nếu một bậc A-la-hán là người thành đạt thiền như vậy, Ngài có tuyên bố rằng sự hiểu biết của vị này là huyền biến không? Ngài không thể nào tuyên bố như vậy.
(6) Hoặc nếu Ngài tuyên bố như vậy, Ngài đã làm đảo lộn về Tưởng, Tâm và những quan kiến của vị này.
(7) Andhakas: - Nhưng nếu quan niệm của chúng tôi sai lầm, Ngài có thể nào cho rằng khi một bậc nhập thiền với đề mục Ðất, đối với vị này, có phài tất cả các pháp đều trở thành Ðất không? Ngài cho rằng không. Như vậy chắc chắn sự phán đoán của hành giả mất thăng bằng.
(8) Th: - Nhưng Ngài sẽ thừa nhận rằng Ðất như thế, và Ðất là đối tượng của bậc nhập thiền, có phải Ðất được xem là Ðất không? Như vậy Tuệ huyền biến từ đâu mà có mặt? Ngài nói rằng Ðất thực sự là như thế và khi đất là đối tượng của bậc nhập thiền, được nhận thức Ðất như là Ðất, sự tư duy như thế là không tưởng. Thay thế đề mục Ðất bằng Niết Bàn. Ngài có thể nào nói rằng tưởng này là huyễn hoặc chăng? 4. VẤN ÐỀ THÁNH ÐẠO NHẤT ÐỊNH
(Niyāmakathā)
Ðiểm tranh luận: Người phàm phu (Bất định) có Tuệ để đi vào con đường Thánh Ðạo (Nhất định).
Theo chú giải: Quan niệm này của phái Uttarāpathakas.
(1) Theravadins: - Nếu một người phàm phu (Bất định) có Tuệ để đi vào con đường Thánh đạo (Nhất định) thì ngược lại, một người Nhất định phải có Tuệ để đi vào con đường Bất định. Nếu Ngài từ chối, quan niệm của Ngài không đứng vững, Nếu Ngài duy trì bằng một bậc Nhất định không có Tuệ thì không đi vào con đường Thánh đạo và như vậy Ngài bao hàm người rằng người Bất định không có Tuệ để đi vào con đường Thánh đạo đó. Bằng chính quan niệm của Ngài đưa đến kết luận. Quan niệm này không thể chấp nhận.
(2) Lại nữa, nếu một người Bất định có Tuệ để đi vào con đường Thánh đạo, thì Ngài phải chấp nhận rằng những bậc nào Nhất định thì trình độ trí tuệ những bậc ấy ngang nhau không? Và ngược lại, nếu Ngài chấp nhận một bậc Nhất định (Thánh đạo) không có Tuệ để đi vào con đường Thánh đạo thì chắc chắn Ngài cũng phải từ khước tuệ này đối với người Bất định.
(3) Lại nữa, trong sự xác nhận một bậc Bất định có Tuệ để đi vào con đường Thánh đạo, có phải Ngài thừa nhận bậc này cũng có tuệ để không đi vào con đường Thánh đạo không? Ngài từ khước. Như vậy có nghĩa là Ngài đã chấp nhận bậc này không có Tuệ để đi vào con đường Thánh Ðạo này. Tương tự có phải Ngài chấp nhận bậc không có Tuệ để đi vào con đường Thánh đạo không? Ngài từ khước?
(4) Có phải quan niệm của Ngài cũng có nghĩa là có một con đường Thánh Ðạo cho người phàm phu đi vào không? Ngài từ khước, tuy nhiên, Ngài lại thừa nhận rằng có Tuệ để đi vào con đường ấy? Có phải Tuệ này bao gồm Tứ Niệm xứ và những phẩm trợ đạo khác. Ngài phải từ khước và
(5) Chấp nhận rằng không có con đường Nhất định nào như vậy? Do đó, làm thế nào quan niệm của Ngài có thể đứng vững được.
(6) Có phải Ngài không thừa nhận rằng chỉ trong trường hợp của một bậc chuyển biến (Gotrabhūpuggalo) mới có tuệ của (Ðạo Dự lưu)? Hay đối với một bậc đang tu tập để chứng Quả Dự Lưu ... Quả A-la-hán mới có Tuệ của Quả ấy? Như vậy, làm thế nào Ngài có thể chấp nhận người phàm phu có Tuệ để đi vào con đường Thánh đạo được.
(7) Uttarāpathakas: - Nếu chúng tôi sai lầm, trên một phương diện khác, Ngài phải chấp nhận rằng Ðức Thế tôn biết được người, Nhất định hay Bất định, sẽ thực sự đi vào Thánh đạo, và có khả năng thấu rõ Tứ Ðế. 5. VẤN ÐỀ TUỆ PHÂN TÍCH
(Patisambhidakathā)
Ðiểm tranh luận: Tất cả Tuệ đều là Tuệ phân tích.
Theo chú giải: Quan niệm này của phái Andhakas, cho rằng bậc Thánh đạo nào có Tuệ siêu thế thì bậc ấy cũng có Tuệ phân tích.
(1) Theravadins: - Như vậy, Ngài phải chấp nhận phàm Tuệ là Tuệ phân tích. Ngài từ chối điều này, vì nếu Ngài đồng ý, thì tất cả phàm phu, có Tuệ nhất định cũng hội đủ được Tuệ phân tích. Ngài từ khước điều này. Lý luận tương tự nếu thay thế "Tha tâm thông" cho "Tuệ phàm phu".
(2) Lại nữa, nếu tất cả Tuệ đều là Tuệ phân tích, thì tất cả sự tinh tế, minh mẫn của một người cũng là Tuệ phân tích. Hoặc giả, nếu Ngài có thể chấp nhận điều đó thì phải chấp nhận sự tinh tế, minh mẫn của một bậc đắc thiền với đề mục Ðất, Nước, Lửa, Gió hay xanh, đỏ, vàng, trắng hay bậc đắc thiền với đề mục thiền Vô sắc, hay một người cúng dường đến chư Tăng bất cứ Tứ vật dụng nào đều là Tuệ phân tích. Nhưng điều này Ngài cũng từ khước.
(3) Andhakas: - Nếu tôi sai lầm, Ngài phải thừa nhận, có một pháp như vậy là Tuệ siêu thế, có phải pháp ấy không hay là Tuệ phân tích sao?
Th: - Ðiều đó thì tôi không phủ nhận.
A.: - Như vậy quan niệm của tôi rất hữu lý. 6. VẤN ÐỀ PHÀM TUỆ
(Sammatinānakathā)
Ðiểm tranh luận: Có sự sai lầm khi nói rằng, phàm tuệ chỉ có đế làm đối tượng mà không có pháp nào khác làm đối tượng.
Theo chú giải: Quan điểm này của phái Andhakas, họ sử dụng từ "Ðế" không có sự phân biệt giữa tục đế và thánh đế.
(1) Andhakas: - Có phải Ngài chấp nhận rằng, một bậc nhập thiền rồi đề mục Ðất có Tuệ? Có phải đề mục đất là không phải là tục đế?
Th: - Vâng, đó là đề mục chế định.
A.: - Như vậy, tại sao lại loại trừ phàm Tuệ có đế làm đối tượng?
(2) Lý luận tương tự áp dụng cho các đề mục khác và sự cúng dường tứ vât dụng (như luận điểm 5).
(3) Như vậy, theo như Ngài, phàm Tuệ chỉ có đế làm đối tượng. Nhưng có phải đối tượng của phàm Tuệ là sự hiểu rõ Khổ đế, đoạn trừ Tập, đang chứng ngộ Diệt đế và tu tập Ðạo đế? Ngài phải từ khước. (Do đó cần có sự phân biệt giữa các đế). 7. VẤN ÐỀ ÐỐI TƯỢNG CỦA TÂM
(Cittārammanakathā)
Ðiểm tranh luận: Tuệ biết tâm người khác chỉ có tâm làm đối tượng, ngoài ra không có pháp nào khác làm đối tượng.
Theo chú giải: Một số tông phái như Andhakas, quan niệm rằng Tha tâm thông chỉ giới hạn trong sự biết tâm của người khác (Cetopariyāyenanaṃ). Quan niệm này thực ra bị thiếu sót, vì trong sự hiểu biết tâm như tâm có ái .... Thì đối tượng trở nên phức tạp.
(1) Theravadins: - Có phải Ngài chấp nhận rằng, một bậc hiểu rõ tâm đang có ái, sân, si, ... cũng chỉ có tâm làm đối tượng ngoài ra không có pháp nào khác làm đối tượng? Như vậy, quan niệm của Ngài đã được sử dụng một cách tùy tiện.
(2) Lại nữa, Ngài không thể từ khước rằng, trong sự hiểu rõ tâm của người khác, tuệ có thể có những đối tượng như xúc, thọ .... (hay bất cứ một sở hữu tâm nào khác). Như vậy, đâu là tâm đơn thuần duy nhất là đối tượng của tha tâm không?
(3) Hay có phải Ngài muốn tranh luận về trường hợp tha tâm thông không có đối tượng như xúc, thọ ... hay những sở hữu tâm khác? Ngài đồng ý? Nhưng có phải sự thấu rõ tâm của người khác không bao gồm sự thấu rõ xúc, thọ ... Ðiều này thì Ngài từ khước?
(4) Andhakas: - Ngài cho rằng quan niệm của tôi là sai lầm. Nhưng có có phải Tuệ thấu rõ tâm người khác không bị giới hạn trong chính tâm (người khác) chăng? Do đó, chắc chắn tôi rất hữu lý. 8. VẤN ÐỀ TUỆ VỊ LAI
Ðiểm tranh luận: Có tuệ vị lai ...
Theo chú giải: Quan niệm này của phái Andhakas.
(1) Theravadins: - Nếu chúng ta có thể biết được về vị lai (một cách tổng quát) thì Tuệ đó phải được biết bằng nhân, bằng duyên, bằng nghiệp hữu, bằng sanh hữu, bằng vật thực, bằng cảnh, bằng vật. Nhưng Ngài từ khước rằng chúng ta biết về vị lai như vậy ... (3)
(2) Và vị lai phải được biết bằng nhân duyên, cảnh duyên, trưởng duyên, vô gián duyên và liên tiếp duyên. Nhưng ở đây Ngài từ khước.(4)
(3) Hơn nữa, nếu Ngài hữu lý thì một bậc chuyển biến có Tuệ của một bậc Ðạo Dự Lưu, bậc Ðạo Dự lưu có Tuệ của bậc Quả Dự lưu v.v... Nhưng Ngài cũng từ khước điều này.
(4) Andhakas: - Nếu tôi sai lầm có phải không có bài kinh mà trong đó Ðức Thế tôn đã từng tuyên bố "Này Ānanda, có ba tai nạn sẽ xảy đến cho thành Patna, nạn lửa, nạn nước, và nạn chia sẻ sự đoàn kết"? (5) . Như vậy chắc chắn có Tuệ vị lai. 9. VẤN ÐỀ TUỆ HIỆN ÐẠI
Ðiểm tranh luận: Có Tuệ hiện tại.
Theo chú giải: Vì có kim ngôn của Ðức Phật: khi tất cả các pháp được thấy là vô thường thì chính Tuệ ấy, như một pháp, cũng được xem là vô thường. Phái Andhakas quan niệm đó là Tuệ hiện tại mà không có sự phân biệt rõ ràng. Thực ra, nếu có Tuệ hiện tại thì chính tuệ ấy phải biết chính nó ngay tức khắc trong hiện tại. Nhưng hai Tuệ này không thể tồn tại đồng thời khi ấy chính nó làm đối tượng, Tuệ hiện tại này không thể được biết bằng chính Tuệ ấy, hay nói cách khác, tự tâm là một hoạt động phản hồi và khi nó được xem là đối tượng thì không còn ở hiện tại mà đã trở thành quá khứ.
(1) Theravadins: - Nếu Tuệ hiện tại, thì có phải một người hiểu biết bằng chính tuệ đó không? Nếu Ngài từ khước, quan điểm của Ngài sẽ bị thất bại. Nếu Ngài đồng ý, tôi xin hỏi: Có phải một người hiểu biết được hiện tại bằng chính Tuệ hiện tại đó không? Ngài từ khước và thừa nhận đầu tiên của Ngài sẽ không hữu lý, nếu Ngài đồng ý, tôi xin hỏi: Có phải Tuệ hiện tại là đối tượng của chính Tuệ đó không? Ngài từ khước và sự thừa nhận đầu tiên của Ngài bị thất bại. Nếu Ngài đồng ý, Ngài bao hàm rằng một người xúc chạm bằng chính xúc đó, cảm thọ bằng chính thọ đó, nhớ tưởng bằng chính tưởng đó, suy xét bằng chính tâm đó, vui mừng bằng chính hỷ đó, suy tư bằng chính niệm đó hay thấu rõ bằng chính Tuệ đó, Ngài cũng bao hàm rằng một người bẻ gươm bằng chính gươm đó, bẻ dao bằng chính dao đó, bẻ rìu bằng chính rìu đó, may kim bằng chính kim đó, hôn nhau bằng chính chóp mũi đó, gội đầu bằng chính dầu đó, rửa đàm nhớt bằng chính đàm nhớt đó hay rửa các vật ô uế bằng chính các vật ô uế đó.
(2) Andhakas: - Như vậy có phải tôi sai lầm? Nhưng khi tất cả các pháp được thấy là vô thường, có phải Tuệ đó không được thấy là vô thường sao? Do đó tôi rất hữu lý. 10. VẤN ÐỀ TUỆ QUẢ
(Phalanānakathā)
Ðiểm tranh luận: Một vị Thánh Ðệ tử có thể có Tuệ quả .
Theo chú giải: Một số phái như Andhakas, cho rằng vì cả Ðức Phật và các vị Thánh Ðệ tử hướng dẫn cho chúng sanh giáo pháp về sự chứng đạt các quả thánh, nên các vị Thánh Ðệ tử, giống như Ðức Phật, có thể tuyên bố rằng chúng sanh này hay chúng sanh khác chứng đạt được quả vị. Và nếu như vậy các vị này cũng có thể bằng Tuệ của mình thấy rõ những chi tiết liên quan đến sự chứng đạt. Nhưng họ không thể làm được như thế.
(1) Theravadins: - Quan niệm này bao hàm một vị Thánh Ðệ tử có thể biết được đặc tính của mổi quả, biết được sự thái quá và bất cập của Quả, biết được sự thái quá và bất cập của Quyền, biết được sự thái quá và bất cập của nhân cách.
(2) Vị Thánh Ðệ tử có thể chế định được Uẩn, Xứ, Giới, Ðế, Quyền.
(3) Vị này là Phật, Giáo chủ, Chánh Ðẳng Giác, Toàn Giác, Toàn kiến, Pháp chủ.
(4) Vị này làm Ðạo chưa sanh được sanh ra, tuyên bố về Ðạo chưa ai tuyên bố, thuần thục trong Ðạo chưa ai thuần thục, siêu việt trong Ðạo chưa ai siêu việt. Tất cả những điều này dĩ nhiên Ngài phải từ khước.
(5) Andhakas: - Ngài từ khước một vị thánh Ðệ tử chưa hoàn hảo về trí Tuệ. Như vậy chắc chắn vị ấy có thể có tuệ biết quả của người khác. Chú thích:
(1) Xem Vibhanga, Phần Tuệ phân tích
(2) Xem Bud. Psy. Eth., p.43.
(3) Xem Yamaka, i, p. 13.
(4) Xem Patthana, Bài 1.
(5) D. ii. 92.